|
Cam
thảo
Cam
thảo - Glycyrrhiza uralensis Fisch.,
thuộc họ Đậu - Fabaceae.
Mô
tả: Cây thảo sống lâu năm,
cao 30-100cm. Rễ dài có màu vàng nhạt. Thân có lông mềm, ngắn. Lá
mọc so le, kép lông chim lẻ, gồm 9-17 lá chét hình trứng có mép
nguyên. Cụm hoa chùm ở nách lá; hoa tương đối nhỏ, màu tím
nhạt. Quả đậu cong hình lưỡi liềm, dài 3-4cm, rộng 6-8mm, màu nâu
đen, có lông dày, chứa 2-8 hạt nhỏ dẹt, màu nâu bóng.
Loài
Cam thảo nhẵn - Glycyrrhiza glabra L. cũng thường được sử dụng. Cây cao
1-1,5m, cũng có rễ dài màu vàng nhạt. Lá kép lông chim lẻ có lá
chét nguyên, hình trái xoan tù. Hoa nhỏ màu lơ tím sáng, họp thành
chùm dài mọc đứng. Quả đậu thuôn, dẹp, thẳng hoặc hơi cong,
không lông, nhỏ hơn loài trên và chỉ chứa 2-4 hạt tròn.
Bộ
phận dùng: Rễ - Radix Glycyrrhizae, thường gọi là Cam thảo.
Nơi
sống và thu hái: Cây của
miền Âu á ôn đới, phân bố chủ yếu ở Nga, Trung Quốc, Mông
Cổ, Apganistan, Iran... Ta nhập giống từ Trung Quốc và Nga, đem về
trồng thử nghiệm ở Vĩnh Phú (Tam Đảo), Hà Nội, Hải Hưng nhưng
chưa phát triển được rộng rãi. Ở nước ta, Cam thảo trồng
được 3 năm thì ra hoa, nhưng tỷ lệ kết quả thấp. Đến 5 năm
tuổi, cây ra hoa nhiều và kết quả cao hơn. Thường thì mùa hoa tháng
6-7, mùa quả tháng 8-9. Người ta thu hoạch Cam thảo vào khoảng năm
thứ năm; thường thu vào mùa đông khi cây tàn lụi. Lúc này rễ
chắc, nặng, nhiều bột, có chất lượng tốt. Chải sạch đất
bằng bàn chải. Phân loại to, nhỏ và phơi khô. Khi khô được
50%, bó thành bó và sau đó
chỉ phơi đầu cắt, không phơi cả rễ, để cho vỏ vẫn giữ
được màu nâu đỏ đẹp. Thường dùng dưới dạng Sinh thảo, Chích
thảo, bột Cam thảo:
-
Sinh thảo: Rửa sạch nhanh, đồ mềm, thái thành phiến mỏng 2mm
khi còn nóng; nếu không kịp thái thì nhúng ngay vào nước lã, ủ
mềm để khi thái được dễ dàng. Sau đó sấy hoặc phơi khô.
-
Chích thảo: Sau khi sấy khô, đem tẩm mật (cứ 1kg cam thảo
phiến, dùng 200g mật, pha thêm 200ml nước đun sôi) tẩm rồi sao vàng
thơm. Nếu dùng ít, có thể cắt khúc 5-10cm, cuộn vài lần giấy
bản, nhúng qua nước cho đủ ướt, vùi vào tro nóng, khi thấy
giấy khô hơi sém thì bỏ giấy, thái lát mỏng.
-
Bột Cam thảo: Cạo sạch vỏ ngoài, thái miếng tròn, sấy khô, tán
thành bột mịn vừa. Bảo quản trong thùng kín, để nơi khô ráo.
Thành
phần hóa học: Rễ của Cảm
thảo - G. uralensis chứa glucid
4,7-10,97%, tinh bột 4,17-5,92%. Hoạt chất thuộc nhóm sapanosid là
glycyrrhizin; thuộc nhóm flavonoid là liquiritin, liquiritigenin,
isoliquiritin, isoliquiritigenin, neo-liquiritin, neoisoliquiritin, licurazid.
Rễ Cam thảo nhẵn - G. glabra
chứa 20-25% tinh bột, 3-10% glucose và saccharose, các cumarin, triterpen
và các sterol. Dược liệu chứa các hoạt chất saponosid và
flavonoid. Thuộc nhóm saponosid, có hoạt chất ngọt là glycyrrhizin,
acid liquiritic..; thuộc nhóm các flavonoid có liquiritin, isoliquiritin,
liquiritingenin, isoliquiritigenin, licurasid và các hợp chất oestrogen có
nhân sterol.
Tính
vị, tác dụng: Cam thảo có
vị ngọt, tính bình. Sinh thảo có tác dụng giải độc, tả hoả;
cam thảo tẩm mật sao vàng (chích thảo) tính ấm, có tác dụng
bổ (ôn trung) nhuận phế, điều hoà các vị thuốc. Người ta đã
nghiên cứu thực nghiệm các tác dụng gây trấn tĩnh, ức chế
thần kinh trung ương, giảm ho, tác dụng giải co thắt cơ trơn, gây
tăng tiết dịch vị của histamin, tăng bài tiết mật, chống viêm
và chống dị ứng, tác dụng oestrogen, tác dụng giải độc, lợi
tiểu, nhuận tràng.
Công
dụng, chỉ định và phối hợp:
Sinh thảo được dùng chữa cảm, ho, mất tiếng, viêm họng, mụn
nhọt, đau dạ dày, ỉa chảy, ngộ độc. Chích thảo dùng chữa
tỳ vị hư nhược, ỉa chảy, thân thể mệt mỏi, kém ăn, khát nước
do vị hư, ho do phế hư. Ngày dùng 4-20g dạng thuốc bột, thuốc hãm,
nước nấu và cao mềm. Cam thảo còn được dùng trong Đông y
chữa loét dạ dày, ruột, có tác dụng giảm loét, giảm co thắt cơ,
giảm tiết acid chlorhydric, chữa bệnh Addison... Còn dùng làm tá dược
thuốc viên, thuốc ho, thuốc giải độc. Cam thảo còn được sử
dụng làm chất thơm trong các hỗn hợp thuốc xông, làm thuốc
chống co thắt trong các nước uống nhuận tràng; còn dùng để
chế nước chiết tinh hay khô, dùng trong mỹ phẩm, dùng chế nước
uống giải khát, làm mứt kẹo, tẩm thuốc lá.
Đơn
thuốc:
1.
Chữa ho lao, ho lâu ngày; dùng Cam thảo nướng 120g tán bột, uống
mỗi lần 4g, ngày uống 3-4 lần (Nam dược thần hiệu).
2.
Loét dạ dày; dùng cao Cam thảo 2 phần, nước cất 1 phần hoà tan.
Ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 thìa cà phê. Không uống liên tục quá
3 tuần lễ.
3.
Chữa tâm phế suy nhược, khó thở, mệt xỉu, mạch nhỏ yếu
(huyết áp thấp hay hạ đường huyết); dùng Cam thảo 12g, Đương
quy 10g, Nhị sâm 8g, tán bột uống mỗi lần 4g, ngày uống 3-4
lần, hay sắc uống lúc nguy cấp.
4.
Chữa mụn nhọt, ngộ độc; dùng cao mềm Cam thảo, ngày uống 1-2
thìa cà phê.
Ghi
chú: Người tỳ vị nhiệt,
bụng đầy trướng, nôn mửa, người huyết áp thấp, người
bệnh đái đường không nên dùng. Không dùng với Đại kích, Nguyên
hoa, Cam toại, Hải tảo.
|
|