|
Cúc
dùi trống
Cúc
dùi trống, Rau chuôi, Lưỡng sắc lá nguyên - Dichrocephala
bicolor (Roth), Schlecht. (D.
latifolia Lam.) DC.), thuộc họ Cúc - Asteraceae.
Mô tả: Cây thảo sống hằng năm, cao 10-60cm, phân
nhánh có rãnh, có lông ngắn. Lá mỏng, phiến xoan ngược, hình dàn
lia thon hẹp ở gốc, có răng thuỳ, dài 4-8 cm, rộng 2-3cm. Cụm hoa
là những chuỳ ở nách hay ở ngọn, ít hoa; đầu hoa hình cầu
trắng, to cỡ 4-5mm, có 7-8 dây hoa cái; còn các hoa lưỡng tính có
ít và tập trung ở giữa; lá bắc nhiều, hình trái xoan, nhọn.
Quả bế hình bầu dục, dẹp, dài 1,25mm, có vòng mép khá rõ.
Ra
hoa tháng 1-2, có quả tháng 2-3.
Bộ phận dùng: Toàn cây - Herba Dichrocephalae Bicoloris.
Nơi sống và thu hái: Thường gặp ven
đường, bãi cát, ruộng hoang, vùng núi cao và trung du miền Bắc
của nước ta tới các tỉnh Tây Nguyên. Còn phân bố ở nhiều nước
Đông Nam Á. Thu hái toàn cây vào mùa hè, rửa sạch, dùng tươi hay
phơi và sấy khô để dùng dần.
Tính vị, tác dụng: Cúc dùi trống có vị đắng
và chua cay, tính bình; có tác dụng hoạt huyết, điều kinh, tiêu
viêm, tiêu sưng, lợi tiểu và làm toát mồ hôi.
Công dụng, chỉ định và phối hợp:
Lá và ngọn non nấu canh ăn được. Ta thường dùng toàn cây với
liều 10-15g sắc uống chữa kinh nguyệt không đều, bong gân. Dùng
ngoài giã cây tươi đắp trị đinh nhọt, rắn cắn. Ở Campuchia, các
cây non được dùng sắc nước phối hợp với các vị thuốc khác
để rửa cơ quan sinh dục nữ khi bị bệnh lậu, khí hư, và các
vết đốt, vết cắn của sâu bọ, nhện và bò cạp. Ở Inđônêxia
(Java) người ta dùng nước sắc các chồi hoa làm thuốc uống cho
ra mồ hôi và lợi tiểu. Ở Trung Quốc (Hải Nam), người ta dùng
cả cây trị cảm sốt, đau bụng ỉa chảy, viêm gan, viêm họng,
lở miệng, bắp thịt nung mủ, mẩn ngứa.
Đơn thuốc:
1.
Bong gân, dùng bột Cúc dùi trống 5g uống với rượu, đồng thời
giã cây tươi đắp ngoài.
2.
Đinh nhọt; giã cây tươi, thêm gạo, muối, dùng đắp ngoài 2-3
lần trong ngày.
|
|