EN" "http://www.w3.org/TR/xhtml1/DTD/xhtml1-strict.dtd">
Cẩm
địa la Cẩm
địa la, Ngải máu, Ngán trắng - Kaempferia
rotunda L., thuộc họ Gừng - Zingiberaceae. Mô
tả: Cây thảo cao 30-40cm, có
nhiều củ to, hình trứng không đều; rễ con hình sợi ngắn kết
thúc bằng một củ hình trứng. Lá xuất hiện sau khi cây ra hoa, thành
búi 2-5 lá có bẹ ở gốc, thuôn nhọn ở hai đầu, mặt trên loang
lổ những vết màu đỏ tía sẫm, mặt dưới có ít lông mềm;
cuống có lá bẹ, màu tía. Cụm hoa mọc trước các lá, không
cuống, có 6-8 hoa mang mỗi cái 2 lá bắc; tràng hoa có ống dài và
hẹp có phiến ngoài chia làm 3 đoạn không bằng nhau, mà 2 trong 3 cái
đó hình ngọn giáo nhọn, màu trắng, mép có vạch đỏ, và đoạn
thứ ba màu tím nằm ở dưới, rũ xuống và chia làm hai thuỳ hình
giáo rộng nhọn. Bộ
phận dùng: Củ - Rhizoma Kaempferiae Rotundae. Nơi
sống và thu hái: Loài của
Ấn Độ, Trung Quốc, Lào, Malaixia, Inđônêxia và Việt Nam. Ở nước
ta, cây mọc hoang ở vùng núi và cũng được trồng khắp nơi vì
hoa đẹp và có mùi thơm dịu. Thu hái củ vào mùa đông- xuân,
rửa sạch, thái phiến phơi khô. Thành
phần hóa học: Củ chứa tinh
dầu. Tính
vị, tác dụng: Cẩm địa la có
vị cay nồng, đắng, hơi hăng, mùi thơm mạnh, tính bình, có tác
dụng bổ huyết, điều kinh, cầm máu, giảm đau, giải độc. Công
dụng, chỉ định và phối hợp:
Củ, lá non dùng ăn được. Ở Java, lá non và củ cũng được dùng
làm gia vị. Người ta dùng củ làm thuốc chữa kinh bế đau bụng,
và hành kinh loạn kỳ, người gầy sạm, máu xấu, kinh ít. Còn dùng
chữa đau dạ dày, đại tiện ra máu, sơn lam chướng khí, lở láy,
ngộ các loại độc, đau xương và nhất là đau bụng. Ở Ấn Độ,
người ta dùng cây lá làm thuốc đắp các vết thương. Rễ củ
được dùng làm thuốc lợi tiêu hoá, dùng đắp tiêu sưng viêm và
làm bột đắp gây mưng mủ. Củ còn dùng làm thuốc lợi tiêu hoá,
dùng đắp ngoài trị bệnh quai bị. Do củ thơm nên người ta dùng
chế mỹ phẩm. Liều dùng 6-13g, dạng thuốc sắc, hoặc dùng 4-8g
bột uống với nước cơm. Người ta cũng dùng rễ củ nghiền
sống với rượu. Ở Trung Quốc, cả cây dùng trị đòn ngã tổn
thương. |
||