Cát
sâm Sâm
nam, Sâm trâu, Sâm chào mào - Milletia
speciosa Champ, thuộc họ Đậu - Fabaceae. Mô
tả: Dây leo thân gỗ tới
5-6m. Rễ củ nạc. Cành non phủ lông mềm mịn màu trắng. Lá mọc
so le, kép lông chim lẻ gồm 7-13 lá chét; lá chét non có nhiều lông.
Hoa màu trắng hoặc vàng nhạt, mọc thành chùm kép ở đầu cành
hay ở nách lá. Quả đậu dẹt, có lông mềm, hạt 3-5, hình gần
vuông. Hoa
tháng 6-8, quả tháng 9-12. Bộ
phận dùng: Rễ củ - Radix Milletiae Speciosae. Nơi
sống và thu hái: Cây mọc
hoang ở nhiều nơi vùng rừng núi chỗ dãi nắng ở các tỉnh
Quảng Ninh, Lạng Sơn, Bắc Thái, Hà Tây và cũng thường được
trồng làm thuốc. Vào mùa đông xuân, đào rễ củ ở những cây
đã lớn khoảng trên một năm tuổi, rửa sạch, củ nhỏ để nguyên,
củ to bổ dọc phơi hay sấy khô. Khi dùng thái mỏng, để sống
hoặc tẩm nước gừng hay nước mật, sao vàng. Tính
vị, tác dụng: Vị ngọt, tính bình; có tác dụng thư cân
hoạt lạc, bổ hư nhuận phế. Công
dụng, chỉ định và phối hợp:
Thường được dùng trị 1. Đau vùng lưng chân, thấp khớp; 2. Viêm
phế quản mạn tính (lao phổi ho khan), phổi kết hạch; 3. Viêm gan
mạn tính; 4. Di tinh, bạch đới. Liều dùng 30-60g, dạng thuốc
sắc hoặc ngâm rượu uống. Cũng có thể tán bột uống. Người
ta cũng thường dùng củ làm thuốc bổ mát, chữa nhức đầu, khát
nước, bí đái. Đơn
thuốc: 1.
Chữa cơ thể suy nhược, kém ăn, ho nhiều đờm; dùng Cát sâm
(tẩm gừng sao vàng) 30g, sắc uống. 2.
Chữa nhức đầu, ho khan, khát nước, sốt về chiều, bí tiểu
tiện; dùng Cát sâm (tẩm mật sao) 30g, sắc uống. |
||