|
Rau
đắng biển
Rau
đắng biển, Rau sam đắng, Cây ruột gà - Bacopamonnieri (L)
Wettst (Herpestis monieri (L) H.B.K) thuộc họ Hoa mõm sói - Scrophulariaceae.
Mô
tả:
Cây thảo sống dai có thân nhẵn, mọc bò mang rễ dài 10-40cm. Các
cành mọc đứng mềm, không lông, rất đắng. Lá mọc đối, không
cuống, thuôn hình muỗng, dài cỡ 1cm, gân chính hơi khó thấy. Hoa
mọc riêng lẻ ở nách lá, có cuống 1cm, 5 lá đài không đều, cao
5-6mm, 5 cánh hoa trắng gần nhau, dính nhau ở dưới thành ống, 4
nhị, nhuỵ có bầu, không lông. Quả nang hình trứng có mũi,
nhẵn, có vòi tồn tại trong đài. Hạt nhiều, rất nhỏ.
Bộ
phận dùng:
Toàn cây - Herba Bacopae Monnieri.
Nơi
sống và thu hái:
Loài liên nhiệt đới, mọc hoang ở ven bờ ruộng bãi cỏ, đất cát
ở đồng bằng. Thu hái toàn cây quanh năm, rửa sạch, dùng tươi
hay phơi khô.
Thành
phần hoá học:
Trong cây có alcaloid brahmine tác dụng giống như strychnin nhưng ít
độc hơn. Còn có saponin là hersaponin có tác dụng chủ yếu,
giống với reserpin và chlororomazin. Người ta còn phân ly được 3
base là oxalat, B2 oxalat, Bachloroplatinate, stigunasterol ở
trạng thái tự do, acid betulic.
Tính
vị, tác dụng:
Rau đắng biển có vị đắng, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt,
giải độc, lợi tiểu tiêu thũng, còn dùng khai vị kích thích,
chống co thắt, thông hơi, trợ thần kinh và trợ tim.
Công
dụng, chỉ định và phối hợp:
Thường được dùng trị: 1. Xích, bạch lỵ (lỵ ra máu, mủ); 2.
Mắt đỏ sưng đau; 3. Da sưng đỏ; 4. Nhức mỏi tê bại, đòn ngã
tổn thương; 5. Viêm gan vàng da (thay vị rau má); 6. Ho. Dùng ngoài
da tắm trị ghẻ.
Ở
Ấn Ðộ, người ta dùng toàn cây để trị hen suyễn, động kinh,
điên rồ, mất tiếng và dùng thân lá trị rắn cắn.
Ở
Xri Lanca toàn cây dùng làm thuốc xổ, và đun nước nóng rửa
chữa bệnh nhọt độc sưng ngoài da như da voi.
Cách
dùng:
Ta thường dùng rau đắng biển ăn như rau sống hoặc nấu chín ăn.
Ðể làm thuốc, liều dùng hàng ngày là 6-12g dạng thuốc sắc. Dùng
ngoài, nấu nước tắm hoặc dùng cây tươi giã nhỏ lấy nước
trộn với dầu hoả dùng xoa chỗ đau.
|
|