|
Rau
má lá to
Rau
má lá to, Rau má dại, Rau má rừng - Hydrocotyle nepalensis Hook,
(H. javanica Thunb.), thuộc họ Hoa tán - Apiaceae.
Mô
tả: Cây thảo có thân mọc bò
trên mặt đất, dài 0,5-1,2m. Thân mập, tròn, mọng nước. Lá mọc
so le, hình mắt chim hay hình thận, có 7-8 thuỳ xẻ sâu, các thuỳ
gốc choãi ra, thuỳ tròn, nhẵn, có khía răng cưa; gân lá có
nhiều lông to ở gốc; cuống lá dài. Cụm hoa thường chụm lại
ở ngọn cành, hơi ngắn hơn lá và mọc ở nách lá, trên một
cuống chung dài 3-5cm có khi mọc đơn độc, thường xếp thành chùm
8-15 tán có cuống ngắn, mỗi tán lá có 15-20 hoa nhỏ không cuống.
Quả có cuống ngắn, có lông, mang những tuyến màu đỏ và có
cạnh lồi không rõ lắm.
Bộ
phận dùng: Toàn cây - Herba Hydrocotyles Nepalensis.
Nơi
sống và thu hái: Loài phân
bố ở Nêpan, Ấn Ðộ, Trung Quốc, Malaixia, Inđônêxia và Việt
Nam. Ở nước ta, cây mọc ở chỗ ẩm ướt ven suối, ven rừng nơi
ẩm và sáng ở nhiều vùng của nước ta từ Lạng Sơn, Hà Tĩnh,
Bắc Thái, Khánh Hoà, Lâm Ðồng, Kontum, Ninh Thuận, có khi chúng
mộc tập trung thành từng đám lớn.
Tính
vị, tác dụng: Vị cay, hơi đắng, có tác dụng chỉ huyết, chỉ thống tán
ứ thanh nhiệt, thanh phế chỉ khái. Ở Ấn Ðộ, cũng được xem có
tác dụng bổ mát, gây chuyển hoá, lợi tiểu.
Công
dụng, chỉ định và phối hợp:
Lá non, chần qua nước sôi, dùng ăn ngay hoặc nấu canh, luộc,
muối dưa. Ðồng bào Dao dùng toàn cây, giã ra, rắc xuống nước
để duốc cá.
Ở
Xri Lanca và Malaixia người ta sử dụng cây này như rau má.
Ở
Ấn Ðộ, cây dùng làm thuốc kích thích đối với bệnh ngoài da,
lá dùng trị tiêu hoá kém, lỵ và làm thuốc sát trùng.
Ở
Trung Quốc, cây dùng trị thổ huyết, ho, đau bụng, đòn ngã, gãy
xương, ngứa lở, chó cắn.
|
|