Mít
Mít
- Artocarpus heterophyllus Lam.,
thuộc họ Dâu tằm - Moraceae.
Mô tả: Cây gỗ cao 12-20m. Lá hình trái xoan nguyên
hay chia thùy về một phía, có những lông móc dễ rụng, dài
9-20cm. Cụm hoa ở trên thân hoặc trên cành già. Quả to hình trái
xoan hay thuôn, dài tới 60cm và nặng 20-30kg, thuộc loại quả kép
gồm nhiều quả bế dính trên một đế hoa chung. Quả bế (mà ta
hay gọi là hạt) được bao bởi một lớp nạc mềm màu vàng, có
vị ngọt (múi mít) do các mảnh bao hoa tạo thành.
Quả
rộ tháng 6-7.
Bộ phận dùng: Lá, rễ, nhựa – Folium, Radix et Latex Artocarpi Heterophylli.
Nơi sống và thu hái: Gốc ở Tây Âu,
được trồng rộng rãi ở các xứ nhiệt đới. Ở nước ta, Mít
cũng được trồng nhiều ở vùng đồng bằng và vùng núi đến độ
cao 1000m.
Thu
hái các bộ phận của cây quanh năm. Thường dùng tươi. Gỗ dùng
tươi hay phơi khô.
Thành phần hóa học: Gỗ chứa các hợp chất
polyhydric phenolic 2-1-1-5 tetrahydroxysitillbenne các chất màu của gỗ
là artocarpin và artocapanone, một flavon và một flavonen tương ứng.
Vỏ chứa 3,3% tanin, còn có hai triterpen kết tinh là lupeol và acetat b-amyrin. Nhựa chứa
steroketon kết tinh và artostenon. Lá và hạt chứa acetylcholine.
Tính vị, tác dụng: Quả xanh chát làm săn
da. Quả chín với các múi Mít có vị ngọt, tính ấm, có tác
dụng chỉ khát, trợ phế khí, trừ chứng âm nhiệt. Hạt Mít có
vị ngọt, tính bình, có mùi thơm, có tác dụng tu dưỡng ích khí,
thông sữa. Nhựa có vị nhạt, tính bình, có tác dụng tán kết tiêu
thũng, giải độc, giảm đau. Lá Mít lợi sữa, giúp tiêu hoá, an
thần.
Công dụng, chỉ định và phối hợp:
Quả xanh dùng ăn như rau, hoặc luộc, hoặc xào. Quả chín cho múi
và hạt ăn được, nhưng hạt Mít ngoài tinh bột protid, lipid,
muối khoáng, còn có chất men ức chế men tiêu hoá đường ruột nên
ăn nhiều dễ bị đầy bụng.
Hạt
Mít được dùng trị ghẻ lở, lâm bạ kết hạch, sản hậu ít
sữa. Hạt Mít nướng hay luộc ăn thơm ngon và bùi. Múi Mít dùng
chữa sốt rét rừng và giải say rượu.
Lá
Mít được dùng làm thuốc lợi sữa, chữa ăn uống không tiêu,
ỉa chảy và trị cao huyết áp. Ở Ấn Ðộ, người ta dùng chữa
các bệnh ngoài da và trị rắn cắn.
Rễ
cây sắc nước uống trị ỉa chảy và cùng với vỏ trị các
loại viêm gây sốt.
Dịch
nhựa cây thường được dùng đắp rút mủ mụn nhọt, còn dùng
trị bệnh giang mai và trừ giun. Ở Ấn Ðộ, người ta dùng đắp
lên hạch sưng và áp xe để kích thích sự mưng mủ.
Dái
Mít dùng chữa sa dạ con và lõi Mít có tính gây sẩy thai.
Đơn thuốc:
1.
Phụ nữ đẻ ứ sữa; Lá Mít tươi 30-40g nấu uống.
2.
Ăn không tiêu, ỉa chảy: Lá Mít 20g sao vàng sắc uống, có thể
phối hợp với Nam mộc hương 12g, ngày uống 2 lần, mỗi lần
30-50ml.
3.
An thần, trị cao huyết áp: Lá và vỏ Mít, mỗi thứ 20g sắc
uống 2 lần trong ngày, mỗi lần 50ml.
4.
Nhọt, sưng hạch: nhựa Mít, trộn thêm ít giấm, bôi nhiều lần
đến tan.
5.
Trẻ em đái ra cặn trắng: Lá Mít sao vàng sắc uống.
|