|
Dây
gắm
Dây
gắm, Dây sót hay Dây mấu - Gnetum
montanum Markgr. (G. scandens
Roxb.), thuộc họ Dây gắm - Gnetaceae.
Mô tả:
Dây leo mọc cao, dài đến 10-12m. Thân to, phình lên ở các đốt. Lá
nguyên, mọc đối, phiến hình trái xoan, thuôn dài, mặt tròn trên
nhẵn bóng. Hoa đực và hoa cái khác gốc, tập trung thành nón. Hoa
đực mọc thành chuỳ; hoa cái mọc thành chùm gồm nhiều vòng,
mỗi vòng khoảng 20 hoa. Quả có cuống ngắn, dài 1-5cm, rộng
12-16mm, dày 11-33mm, bóng, mặt ngoài phủ một lớp sáp, khi chín có
màu vàng. Hạt to.
Cây
ra hoa tháng 6-8, có quả tháng 10-12.
Bộ phận dùng:
Rễ và dây - Radix et Caulis Gneti.
Nơi sống và thu hái:
Loài đặc hữu của Đông Đông Dương, mọc hoang ở rừng núi, leo
lên rất cao. Rễ và dây thu hái quanh năm, rửa sạch, thái mỏng,
phơi khô.
Thành phần hoá học:
Hạt chứa 14,2% một chất dầu cố định.
Tính vị, tác dụng:
Dây gắm (Vương Tôn) có vị đắng, tính bình, có tác dụng khu
phong, trừ thấp, thư cân hoạt huyết, giải độc, tiêu viêm, sát
trùng.
Công dụng, chỉ định và phối
hợp: Cây có vỏ cho sợi
tốt, thường dùng làm dây nỏ, làm chạc hay thừng. Hạt ăn được.
Rễ và thân dây gắm thường dùng làm thuốc giảm đau, chữa phong
tê thấp, sản hậu mòn, giải các chất độc (Ngộ độc thức ăn,
sơn ăn da, rắn cắn); cũng dùng làm thuốc chữa sốt và sốt rét.
Rễ gắm còn được dùng chữa kinh nguyệt không đều. Lá gắm giã
đắp chữa rắn cắn.
Liều
dùng 15-20g có thể đến 30g, dạng thuốc sắc hay ngâm rượu
uống. Để chữa thấp khớp, người ta thường phối hợp với các
vị thuốc khác ngâm rượu uống.
Ở
Ấn Độ, dầu hạt dùng xoa bóp trị bệnh tê thấp, thân và rễ
hạ nhiệt.
Phương
thuốc Chí bảo hoàn chữa phong thấp trong Bách gia trân tàng: Rễ
gắm, Vỏ chân chim, Cốt toái bổ, Hy thiêm, Ngưu tất, Thạch lựu,
mỗi vị 4 lạng, Cẩu tích 8 lạng, Tỳ giải 5 lạng. Lá ké, Quán
chúng, mỗi vị 2 lạng 5 đồng cân; các vị sấy khô tán bột làm
viên, uống dần với rượu hay nước Gừng hoặc ngâm rượu. Cũng
có thể dùng 1/10 lượng trên, sắc uống.
|
|