|
Dầu
rái
Dầu
rái, Dầu con rái - Dipterocarpus
alatus Roxb., thuộc họ Dầu - Dipterocarpaceae.
Mô tả:
Cây gỗ lớn, cao tới 30-40m, vỏ cây màu xám trắng. Cành non và búp
non có lông mịn. Lá mọc so le, tròn hoặc tù ở gốc, hơi nhọn
ở đỉnh, dài 10-26cm, rộng 6-15cm, hơi nhẵn ở mặt trên, có lông
mềm ở mặt dưới; cuống dài 3-4cm, có lông mịn; lá kèm có màu
đỏ nhạt, thường rụng. Hoa khá lớn, không cuống, tập hợp thành
chùm đơn hay phân nhánh. Hoa có ống đài mang quả, với 5 lá đài
mà 2 cái sẽ phát triển thành cánh mỏng dạng màng; 5 cánh hoa màu
trắng, có 1 sọc đỏ ở giữa. Quả dài 10-15cm, rộng 2,5-4cm, lúc
non có màu đỏ tươi, lúc già màu nâu.
Bộ phận dùng:
Nhựa dầu và vỏ cây - Oleoresina et Cortex Dipterocarpi Alati.
Nơi sống và thu hái:
Cây của vùng Ấn Độ - Malaixia, mọc hoang và cũng được trồng.
Người ta thường khai thác nhựa dầu. Để làm thuốc, có thể
lấy nhựa và vỏ cây quanh năm.
Thành phần hoá học:
Nhựa dầu hơi thơm, gần giống mùi giấm, gồm có 79,10% tinh dầu
và 20,90% nhựa; nhựa chứa một acid kết tinh; thành phần chủ
yếu của tinh dầu là các sesquiterpen.
Tính vị, tác dụng:
Tinh dầu của nhựa dầu có tác dụng tiêu viêm, kháng sinh, làm
dịu. Vỏ được xem như bổ và lọc máu.
Công dụng, chỉ định và phối
hợp: Nhựa dùng chữa viêm
niệu đạo, viêm cuống phổi và bệnh lậu, nhưng chủ yếu dùng
để băng bó các vết thương, vết loét. Người ta cũng dùng dầu
bôi lên chân những người làm việc ở dưới nước để phòng
bệnh sán vịt. Ở Ấn Độ, nhựa dầu được dùng thay bôm capahu
để chữa bệnh lậu với liều 2-4g mỗi ngày. Vỏ dầu rái làm
thuốc chữa viêm gan; ở Ấn Độ, dùng chữa thấp khớp. Người
ta cũng dùng những chồi non 2-3 lá làm một chế phẩm để xoa và
đắp lên bụng và giữ lâu ở vùng gan khi có những cơn đau gan
dữ dội.
|
|