|
Thục
quỳ vàng
Thục
quỳ vàng, Thu quỳ, Bụp mì - Abelmoschus manihol (L.) Medic. (Hibiscus
manihol L.), thuộc họ Bông - Malvaceae.
Mô tả: Cây thảo sống một năm hay lưu niên, cao
1-2m; thân non có lông. Lá mọc so le, phiến chia 5-9 thùy, gốc hình
tim, có lông mịn hay không lông, dài 8-18cm, rộng 1-6cm; cuống lá dài
6-18cm. Hoa lớn 12cm, có cuống 1-5cm; lá đài phụ cao 2-3cm, đài hình
tàu, cánh hoa cao 4-8cm, màu vàng vàng gốc tía. Quả nang dài 4-5cm,
chia 5 mảnh, hạt có lông.
Ra
hoa quả tháng 10.
Bộ phận dùng: Rễ, lá, hoa, hạt - Radix,
Folium, Flos et Semen Abelmoschi.
Nơi sống và thu hái: Loài của Trung
Quốc, Triều Tiên, Ấn Độ, Nêpan. Ở nước ta, có trồng ở Cao
Bằng, Lai Châu để lấy lá ăn. Thu hái quả già, đập lấy hạt,
phơi khô dùng. Rễ thu hái vào mùa thu, rửa sạch, phơi khô. Lá thu
hái quanh năm.
Tính vị, tác dụng: Vị hơi ngọt, tính hàn;
có tác dụng thanh nhiệt giải độc, nhuận táo, hoạt trường. Có
tác giả cho rằng rễ có vị ngọt, tính bình; có tác dụng nhuận
đại tiện, lợi Thủy và hạt có vị ngọt, tính bình; có tác
dụng bổ tỳ kiên vị, sinh cơ.
Công dụng, chỉ định và phối hợp:
Hạt dùng trị đại tiện bị kết, tiểu tiện không lợi, Thủy
thũng, sỏi niệu đạo, sữa xuống không thông. Còn dùng chữa tiêu
hoá không bình thường, không muốn ăn, đòn ngã tổn thương, gẫy
xương. Rễ, lá dùng trị đinh sang, viêm tuyến nước bọt, gẫy xương,
đao chém. Rễ còn được dùng trị đái dắt, Thủy thũng. Hoa ngâm
trong dầu hạt cải dùng trị bỏng lửa. Liều dùng hạt 8-12g, rễ
16-20g, dạng thuốc sắc. Dùng ngoài không kể liều lượng, giã nát
đắp.
|
|