|
Táo
dại
Táo
dại, Táo rừng - Ziziphus oenoplia (L.) Mill. (Rhamnus oenoplia
L.), thuộc họ Táo ta - Rhamnaceae.
Mô
tả: Cây gỗ nhỏ, có gai to,
cong. Lá xoan - ngọn giáo không cân đối, nhọn cả hai đầu, màu
lục sẫm, có lông hay nhẵn ở trên, màu sáng hơn và có lông, có
khi phủ một lớp lông mềm rất dày ở dưới, dài 2-6cm, rộng
1,5-3cm, gân 3, hướng lên. Hoa thành xim ở nách, dài 5-10mm. Quả
hạch hình cầu hay hình trứng, đen đen, kèm theo đài và vòi nhụy
tồn tại, dài 5-6mm, rộng 5mm, hạch có 1-2 ô, chứa 1 hạt bóng đen.
Ra
hoa tháng 5-8, quả tháng 10-12.
Bộ
phận dùng: Vỏ, vỏ rễ,
hạt, lá - Cortex, Cortex Radicis, Semen et Folium Ziziphi
Oenopliae.
Nơi
sống và thu hái: Loài phân
bố ở Ấn Độ, Malaixia, Thái Lan, úc châu và Campuchia, Lào, Việt
Nam. Ở nước ta, thường gặp trong các quần hệ thứ sinh, các đồi
cây bụi từ Bắc vào Nam.
Công
dụng, chỉ định và phối hợp:
ở nước ta, hạt táo dại được dùng làm thuốc dịu ho, làm dễ
ngủ và chữa ỉa chảy, kiết lỵ. Dân gian dùng lá vò ra uống
chữa chóng mặt, buồn nôn; lá sắc uống giải độc thức ăn.
Ở
Campuchia, vỏ được dùng trị sốt cho trẻ sơ sinh, người ta nhai
vỏ và dùng miệng phun nước vào cơ thể của trẻ.
Ở
Ấn Độ, nước sắc vỏ rễ được dùng chữa các vết thương còn
mới; quả là một thành phần của thuốc trị đau dạ dày.
|
|