|
Rau
sắng
Rau
sắng, Rau ngót núi, Ngót rừng - Melientha suavis Pierre, thuộc
họ Sơn cam - Opiliaceae.
Mô
tả:
Cây gỗ nhỏ cao 4-8m, nhẵn; các cành mảnh ở ngọn cây, vỏ màu
lục, khi già có màu lốm đốm trắng và hoá bầu. Lá mọc so le, hình
ngọn giáo, thu hẹp tù lại cả hai đầu, rất nhẵn, dày, dài
7-12cm, rộng 3-6cm, gân phụ 4-5 đôi, mảnh, cuống lá 4-5mm. Cụm hoa
ở bên, nằm ở nách của một lá đã rụng hình chuỳ phân nhánh
và mảnh gồm có một cuống dài 13cm, với các nhánh dài 4cm. Hoa
đơn tính, cao 2mm, rất thơm. Quả gần như nạc, thuôn hay hình
trứng, dài 25mm, rộng 17mm, khi chín màu vàng có hạch cứng chứa
một hạt.
Ra
hoa tháng 4.
Bộ
phận dùng:
Lá, rễ - Folium et Radix Melienthae Suavis.
Nơi
sống và thu hái:
Loài phân bố ở các nước Ðông Dương. Ở nước ta, rau sắng
mọc phổ biến ở rừng ven suối, ven núi đá ở nhiều tỉnh phía
Bắc Quảng Ninh, Lạng Sơn, Bắc Thái, Vĩnh Phú, Hà Tây, Sơn La, Lai
Châu. Ở miền Nam chỉ mới biết có ở rừng của núi Dinh (Bà
Rịa - Vũng Tàu).
Thành
phần hoá học:
Trong rau sắng có 82,4% nước, 5-5-6,5% protid, 5,3-5,5% glucid, 2,2%
cellulose, có đủ các loại amino acid cần thiết cho cơ thể như
lysin, methionin, tryptophan, phenylalanin, threonin, valin, leucin và
isoleucin.
Công
dụng, chỉ định và phối hợp:
Người ta thường lấy lá non, lá bánh tẻ, hoa, quả non xào hay
nấu canh ăn. Có thể nấu canh với thịt nhưng cũng có thể nấu
canh suông, bát canh vẫn ngon ngọt, đậm đà. Lá rau sắng nấu canh
tuy đã ngon, nhưng khi có thêm những chồi nụ vàng như hoa ngâu thì
canh có đầy đủ hương vị bùi, thơm, ngon ngọt và dịu mát.
Hạt
cũng ăn được, có vị béo, ngọt.
Rễ
được sử dụng chữa sán (theo Lê Kin Biên, Tập san Sinh vật Ðịa
học số 11-1973).
|
|