is naloxone and naltrexone the same

naltrexone and naloxone difference blog.rarespares.net.au
EN" "http://www.w3.org/TR/xhtml1/DTD/xhtml1-strict.dtd"> Rau mui

Rau mui

Rau mui, Cúc biển, Sài đất hai hoa - Wedelia biflora (L) DC (Verbesina biflora L) thuộc họ Cúc - Asteraceae.

Mô tả: Cây thảo cao 1-1,5m, mọc đứng, gần như trườn, có thân và cành có rãnh nhẵn. Lá hình ngọn giáo, thon lại trên cuống, có mũi nhọn dài, dài 4-7cm, rộng 2-4cm, có lông cứng nham nhám trên cả hai mặt, mép có răng thưa, cuống lá rất mảnh, dài 1-3cm. Hoa đầu cô độc hay từng cặp lưỡng phân hoặc ở nách lá phía ngọn; lá bắc xoan, dài 4-5mm; hoa hình môi có 5-10 cái, giữa các hoa có vảy. Quả bế hình xoan ngược, tròn và có lông ở đỉnh, không có lông mào, dài 4mm, rộng 2,5mm.

Ra hoa quanh năm.

Bộ phận dùng: Toàn cây - Herba Wedeliae Biflorae.

Nơi sống và thu hái: Loài phân bố ở Ấn Ðộ, Nam Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan, Philippin. Ở nước ta cây mọc ở nơi ẩm rợp từ ven biển tới độ cao 1500m.

Tính vị, tác dụng: Lá có tác dụng bổ huyết, hoạt huyết, tán ứ, tiêu thũng. Hoa gây xổ mạnh, thân lá già có độc.

Công dụng, chỉ định và phối hợp: Ở Cà Mau (Minh Hải) và nhiều vùng khác của nước ta và Ấn Ðộ, người ta dùng đọt lá non làm rau xào nấu với thịt, ốc len, cá, rùa. Lá cây được dùng làm thuốc trị nổi mầy đay bằng cách lấy 3 nắm lá đậm, vắt, rồi pha đường (hoặc muối) để uống.

Ở Ấn Ðộ, lá giã ra dùng làm thuốc đắp lên da bị biến màu, vết cắt, sâu bọ đốt loét, các chỗ đau, sưng và dãn tĩnh mạch. Cũng dùng đắp vào bụng phụ nữ sau khi sinh và dùng cho những loại đau đớn không rõ nguyên nhân. Dịch lá dùng làm thuốc tăng trương lực cùng với sữa bò cho phụ nữ sau khi sinh con. Dùng phối hợp với Ðại hoàng trị táo bón mạn tính. Lá còn dùng sắc uống trị đái ra máu và thông tiểu. Rễ dùng trị rối loạn về âm đạo, bệnh lậu và Sỏi thận hoặc dùng đắp vết thương và ghẻ ngứa.

Ở Malaixia, người ta cũng dùng lá giã và nghiền ra để đắp trị mụn nhọt, apxe, sởi đậu, các vết đốt của sâu bọ. Lá được dùng làm thuốc uống trong trị sốt rét theo chu kỳ, trị đái ra máu. Rễ trị băng huyết.

Ở Philippin, nước sắc lá dùng trị vết thương và trị ghẻ, nước hãm rễ và lá dùng dịu các cơn đau dạ dày.

Ở Quảng Tây (Trung Quốc) cây được dùng trị phong thấp, đau xương, đòn ngã tổn thương, sang dương thũng độc.

Ở Thái Lan, người ta dùng thân lá trị đau đầu và sốt. 

Thân và lá già có độc với dê, ngựa. Khi các loài động vật này ăn nhầm phải sẽ bị ngộ độc sinh nôn tháo và có thể bị chết. 



http://caythuoc.net/cay-thuoc/9999/1319
http://chothuoc24h.com