|
Rau
mác
Rau
mác, Từ cô - Sagittaria sagittifolia L, thuộc họ Trạch tả - Alismataceae.
Mô
tả:
Cây thảo sống nhiều năm, có thân nằm dưới đất, ở đầu phình
thành củ. Lá hình mũi mác, có 3 thuỳ nhọn, cuống lá dài. Cán
hoa mọc đứng, trần dài 20-90cm, mang hoa từ nửa trên. Hoa trắng,
khá to, tập hợp thành chùm đứt đoạn, xếp đối nhau hoặc thành
3 cái một. Quả bế dẹp.
Bộ
phận dùng:
Toàn cây - Herba Sagittariae Sagittifoliae.
Nơi
sống và thu hái:
Loài cây của các vùng nhiệt đới và á nhiệt đới châu Á, châu
Âu và châu Mỹ. Ở Việt Nam, rau mác mọc ở đầm lầy, ruộng
lầy, ao đầm và những nơi có bùn. Thu hái cây vào mùa hè, rửa
sạch phơi khô.
Thành
phần hoá học:
Có nhiều bột và đường. Lá rau mác chứa 91,6% nước, 2,4% protid,
1,5% glucid, 3,1% cellulose, 1,4% tro, 61mg% calcium 1,7mg% phosphor, 3,6mg%
caroten và 12,7mg% vitamin C.
Tính
vị, tác dụng:
Vị ngọt, hơi đắng, tính mát, có ít độc; có tác dụng thanh
nhiệt giải độc, trừ thấp, giảm đau.
Công
dụng, chỉ định và phối hợp:
Lá non và cuống lá thường được làm rau luộc, xào hay nấu canh
ăn. Củ rau mác thu hoạch vào mùa đông, dùng để nấu hay luộc ăn.
Củ dùng làm thuốc bổ dưỡng, cường tráng và cũng dùng làm
thuốc cầm máu. Chuyên dùng chữa sản hậu chóng mặt, đau nhói
trong tim, cũng dùng chữa bệnh lậu có sỏi, chữa ho, ho ra máu nhưng
uống nhiều thì có độc. Hoa làm sáng mắt, trừ chứng thấp, đinh
độc, trĩ, lậu. Lá dùng chữa thũng độc lâu ngày, trẻ em nổi
đơn độc, mụt lở và hôi nách (giã nát đắp vào).
Ở
Trung Quốc người ta còn dùng trị sản dịch, an thai và bệnh ngoài
da, rắn cắn ong đốt, các loại mụn nhọt ở ngứa, cảm nắng.
|
|