Rau diếp
Rau
diếp - Lactuca sativa L var longifolia Lam, thuộc họ Cúc - Asteraceae.
Mô tả: Cây thảo sống
1-2 năm, có thân thẳng hình trụ. Lá mọc ngay từ gốc thân, càng
lên càng nhỏ dần; lá ở gốc có cuống còn lá ở thân không
cuống. Khác với các thứ xà lách là lá không cuộn bắp và lá
mềm nhẵn, màu xanh thẫm. Cụm hoa gồm nhiều đầu hoa hợp lại
thành chuỳ kép, mỗi đầu có 10-24 hoa dạng lưỡi nhỏ màu vàng.
Quả bế hình trái xoan dẹp, màu nâu, có mào lông trắng.
Ra
hoa tháng 3-4.
Bộ phận dùng: Phần cây trên
mặt đất - Herba Lactucae Longifoliae.
Nơi sống và thu hái: Rau diếp chỉ là
một thứ của xà lách vốn xuất xứ từ châu Âu, được nhập vào
trồng ở nước ta. Hiện ta có các chủng như diếp vàng, diếp
xanh, diếp ngõ và diếp lưỡi hổ. Rau diếp chịu nóng khá hơn, có
thể trồng sớm muộn được.
Thành phần hoá học: Trong rau diếp tươi
có 92,3% nước, 1,7% protid, 0,5% lipid, 9% cellulose, 3,2% dẫn xuất khô
protein và 1% khoáng toàn phần.
Người
ta còn biết cây có nhiều Vitamin (E. G.K và cholin và các muối khoáng.
Trong cây có 0,023mg% As. Cây tươi cho 0,0038% và cây khô chứa 0,071%
acid oxlic. Trong cây alcaloid lactucopicrin và cũng như các thứ khác cùng
loài các loài cũng chỉ Lactuca, đều chứa Lactucarinum.
Tính vị, tác dụng: Có vị đắng, tính
lạnh; có tác dụng bổ gân cốt, lợi cho tạng phủ, thông kinh
mạch, lợi khí làm thông miệng, sáng mắt, dễ ngủ và giải độc
rượu.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Rau
diếp thường dùng làm rau ăn sống, trộn đều giấm hoặc làm
cuốn diếp. Cũng được làm thuốc thông sữa, thông tiểu, sát trùng.
Ở
Ấn Ðộ, người ta dùng Rau diếp như xà lách làm thuốc gây buồn
ngủ trong bệnh viêm khí quản, hen suyễn, còn dùng ngoài trị
bỏng và loét nhức nhối.
Ðơn thuốc:
1.
Sữa không thông: Dùng 100g rau diếp đem sắc nước thêm một chén
rượu uống.
2.
Tiểu tiện không thông hoặc đái ra máu: Dùng một nắm rau diếp
giã nhỏ đắp lên trên rốn.
3. Sâu
kiến trong tai không ra: Dùng rau diếp vắt lấy nước cốt nhỏ vào
tai.
|