|
Rau đắng
đất
Rau đắng đất, Rau đắng
lá vòng - Glinus oppositifolius (L) Dc, thuộc họ Rau đắng đất
- Molluginaceae.
Mô tả: Cây thảo
sống lâu năm. Thân cành nhẵn, mọc bò lan. Lá mọc vòng 2-5 lá không
đều nhau, có khi 6 lá, hình mác hẹp, dài 2-2,5cm, có một gân chính.
Lá kèm rất nhỏ, rụng sớm. Hoa màu lục nhạt có cuống dài, tụ
họp 2-5 cái ở nách lá. Hoa không có cánh hoa. Nhị 5, nhuỵ có 3 vòi
nhuỵ. Quả nang. Hạt hình thận.
Mùa hoa quả tháng 4-7.
Bộ phận dùng: Toàn
cây - Herba Glini Oppositifolii.
Nơi sống và thu hái:
Cây của phân vùng Ấn Ðộ - Malaixia mọc hoang trên cát ở bờ
biển hay vùng ngập từng thời kỳ, hố hồ, ruộng từ Nam Hà
tới các tỉnh Ðồng bằng sông Cửu Long. Có thể thu háo cây quanh
năm, tốt nhất lúc cây chưa có hoa, rửa sạch, phơi khô.
Thành phần hoá học:
Lá cây chiết bằng cồn ethanol, thu được spergulagenin A. một
sapogenin triterpenoid bão hoà, trihydroxy-cetone.
Tính vị, tác dụng:
Vị đắng, tính mát, có tác dụng lợi tiêu hoá, khai vị,kháng
sinh, lợi tiểu và nhuận gan.
Công
dụng, chỉ định và phối hợp:
Trong nhân dân, Rau đắng đất được dùng thay rau má trong "toa
căn bản" làm thuốc hạ sốt, chữa bệnh về gan và chứng vàng
da. Thường ở Ấn Ðộ người ta dùng toàn cây sắc nước uống
trừ sản dịch, lại dùng giã ra thêm tí dầu thầu dầu hơ nóng làm
thuốc đắp trị đau đầu. Dùng dịch lá cây để đắp trị
bệnh ngoài da và ghẻ ngứa.
Nhân
dân ta có dùng cây đem đốt thành tro dùng ngâm lấy nước gội đầu.
Ðơn
thuốc:
1.
Cao thuốc trị các bệnh đau vàng da, chậm tiêu, lói bù tay mặt,
nổi u nhọt mày đay: Dây Cứt quạ 1 thúng, Rau đắng đất 1 thúng,
hai thứ nấu chung cho nhừ, lược bỏ xác, nấu nước thành cao, thêm
đường hoặc mật nấu cho đặc, để lâu được. Mỗi sáng, trưa
và tối 1 muỗng cà phê (Kinh nghiệm thời kháng chiến chống Pháp).
2.
Thanh can giải độc: Rau đắng 6g, Nhân trần (Bồ bồ) 5g, Dành dành
5g, Cỏ xước 6g, Rau má 6g, Ké đầu ngựa 6g, dây khổ qua 6g, cỏ
mực 8g, Muỗng trâu 6g rễ tranh 6g, Sài đất 6g. Cam thảo 3g sắc
uống hoặc tán bột, luyện viên uống (Lương y Ðỗ Văn Tranh, An
Giang).
|
|