|
Móng
ngựa
Móng
ngựa, Móng trâu gân dày - Angiopteris
confertinervia Ching, thuộc họ Móng ngựa - Angiopteridaceae.
Mô tả: Thân rễ ngắn mang một chùm lá kép lông
chim hai lần. Thân được bao kín bởi nhiều cuống lá. Lá có
cuống dài 0,5m hay hơn; lá chét bậc hai rất không đều, những cái
trên và cái tận cùng to hơn, dài hơn nhiều, những cái dưới
ngắn hơn, hình bầu dục hay ngọn giáo nhiều hay ít. Gân rất sít
nhau, mỗi cm có khoảng 20 cái. Ổ túi bào tử tròn, xếp sít nhau,
thường gồm khoảng 10-20 túi bào tử; bào tử tròn, có màng màu
đo đỏ.
Cây
sinh sản từ tháng 4 đến tháng 8.
Bộ phận dùng: Thân rễ - Rhizoma Angiopteridis Confertinerviae.
Nơi sống và thu hái: Cây mọc ở rừng
Bắc Thái, có nhiều ở ven suối và những chỗ ẩm ướt trên
dẫy núi Tam Ðảo. Có tác giả cho rằng cây mọc ở miền Bắc và
miền Trung của nước ta, cũng gặp ở Lào và Campuchia.
Thành phần hóa học: Trong thân cây có thành
phần tính theo g%: muối 92,8; protid 0,8; glucid 9; xơ 2,6; tro 0,8 và
theo mg%: calcium 107; phosphor 10; caroten 0,16; vitamin C 17.
Công dụng, chỉ định và phối hợp:
Cuống lá non, tước vỏ, thái nhỏ có thể dùng xào hay nấu canh
ăn. Thân rễ rửa sạch, gọt sạch vỏ, thái mỏng ngâm nước
một ngày đêm, sau đó luộc, xào lẫn thức ăn hoặc độn cơm ăn.
Ghi chú: ở nước ta còn có
nhiều loài Angiopteris khác như A.
cochinchinensis de Vreese, A.annamensis
C Chr et Tard., A.repandula de Vriese
đều có thân rễ (củ) có thể dùng ăn. Một số loài có thể
sử dụng làm thuốc như Móng ngựa lá có đuôi.
|
|