EN" "http://www.w3.org/TR/xhtml1/DTD/xhtml1-strict.dtd">
Mùi tàu Mùi
tàu, Rau mùi tàu, Ngò tàu, Ngò gai - Eryngium foetidum L., thuộc
họ Hoa tán - Apiaceae. Mô
tả: Cây thảo mọc hằng năm,
nhẵn, có thân đơn độc, phân nhánh ở ngọn, cao 15-50cm. Lá ở
gốc hình hoa thị, mỏng, thuôn mũi mác, thon hẹp lại ở gốc, mép
có răng cưa, với răng hơi có gai. Lá ở thân có răng nhiều hơn,
các lá ở trên xẻ 3-7 thùy ở chóp và có nhiều gai. Hoa thành đầu
hình trứng hay hình trụ, có bao chung gồm 5-7 lá bắc hình mũi mác
dẹp, mỗi bên có 1-2 răng và một gai ở chóp. Quả gần hình
cầu, hơi dẹt, đường kính 2mm. Bộ
phận dùng: Toàn cây - Herba Eryngii Foetidi Nơi
sống và thu hái: Cây của Mỹ
châu nhiệt đới, được truyền vào nước ta, mọc hoang phổ
biến nơi ẩm mát vùng đồi núi và được trồng ở nhiều nơi làm
gia vị. Trồng bằng hạt vào đầu mùa mưa. Ðể làm thuốc, có
thể thu hái toàn cây quanh năm, thường dùng tươi hoặc phơi khô
trong mát để dùng dần. Thành
phần hóa học: Cây chứa
0,02-0,04% tinh dầu bay hơi. Rễ chứa saponin. Tính
vị, tác dụng: Mùi tàu có vị hơi đắng, cay, tính ấm, có mùi thơm; có tác
dụng sơ phong thanh nhiệt, kiệm tỳ, hành khí tiêu thũng, giảm đau. Công
dụng: Mùi tàu là cây rau gia
vị quen thuộc, giúp khai vị, ăn ngon cơm, tiêu thức ăn, giải độc
chất tanh. Có thể ăn sống hay nấu chín. Toàn cây được dùng làm
thuốc trị: 1. Cảm mạo đau tức ngực; 2. Rối loạn tiêu hoá; 3.
Viêm ruột ỉa chảy. Liều dùng: 10-15g hãm uống hay sắc uống,
chia làm nhiều lần. Dùng ngoài, giã nát đắp trị các vết thương
và rắn cắn. Ở
Malaixia, người ta dùng rễ Mùi tàu với rễ Cam thảo đất làm
thuốc lợi tiêu hoá. Phụ
nữ thường dùng phối hợp với Bồ kết để gội đầu cho thơm
tóc. Ðơn
thuốc: 1.
Chữa cảm mạo, ăn uống không tiêu: Mùi tàu khô 10g, Cam thảo đất
6g, nước 300ml, đun sôi. Giữ sôi trong 15 phút. Chia 3 lần uống
trong ngày, uống nóng. 2.
Ðể chữa sốt, cảm mạo: Có thể phối hợp với các loại cây
thuốc khác có tinh dầu như Lức, Ngải cứu, Gừng. |
||