|
Mã
đậu linh
Mã
đậu linh, Cây khố rách - Aristolochia kwangsiensis Chum et How,
thuộc họ Nam mộc hương - Aristolochiaceae.
Mô
tả: Dây
leo, dài 5-6m. Cành non có lông tơ dày màu vàng; cành già có vỏ
nứt nẻ thành rãnh sâu theo chiều dọc. Lá dọc hình tim tròn
hoặc gần tròn, đầu tù, mép nguyên, mặt trên màu lục sẫm có lông
ở gân, mặt dưới trắng nhạt có lông dày mịn; cuống lá dài
7-8cm. Hoa màu hồng tím mọc 1-2 cái ở nách lá. Bao hoa hình ống
uốn cong hình lưỡi câu, màu xám phớt tím, phủ đầy lông;
phiến hoa màu hồng tím, đường kính 3cm, chia làm ba thuỳ, mặt trên
có nhiều gai màu tím sẫm, họng màu vàng. Quả nang hình trụ dài
8-10cm, phủ lông mịn.
Mùa
hoa quả tháng 1-5.
Bộ
phận dùng:
Rễ - Radix
Aristolochiae Kwangsiensis; thường gọi là Mã đậu linh.
Nơi
sống và thu hái: Loài của Nam Trung Quốc và Việt Nam. Ở nước ta
cây mọc hoang ở rừng núi, phát hiện ở Lạng Sơn và Hà Giang (Mèo
Vạc).
Thu
hái rễ và mùa thu, dùng tươi hay phơi khô.
Tính
vị, tác dụng: Rễ có mùi thơm, có tác dụng giải nhiệt giảm đau,
sát trùng, cầm máu.
Công
dụng:
Chữa viêm dạ dày, ruột, đau họng; dùng ngoài chữa vết thương
và nhọt độc. Liều dùng 4-6g dạng thuốc sắc. Dùng ngoài, giã
rễ tươi đắp hoặc dùng rễ khô tán bột rắc.
|
|