|
Húp
lông
Húp
lông, Hoa bia - Humulus lupulus L.,
thuộc họ Gai dầu - Cannabaceae.
Mô tả: Cây thảo sống hằng năm có thân quấn,
cao đến 6m. Lá có phiến dài 4-8cm, hình tim ở gốc và chia sâu thành
3-5 thuỳ, hình trái xoan, nhọn ở đỉnh và có răng ở mép. Cây có
hoa khác gốc. Các hoa đực màu vàng lục xếp thành chùm phân nhánh
ở nách các lá; các hoa cái tụ họp thành nón 1-2cm, xếp thành chùm
ở đầu các nhánh; mỗi nón hình trứng gồm nhiều lá bắc dạng
lá, màu vàng lợp lên nhau. Ở nách mỗi lá bắc dính hai hoa cái;
về sau mỗi hoa sẽ cho ra một quả bế.
Hoa
tháng 5-8, quả 9-10.
Bộ
phần dùng: cụm hoa cái (nón cái) Flos
Lupuli, thường gọi là Tị tửu hoa, mà lupulin là bụi nhựa
(tức là các tuyến tiết tích trữ dưới lớp cutin của các lông
tiết bao ngoài các lá bắc); quả.
Nơi sống và thu hái: Cây mọc hoang dại
ở nhiều nước ôn đới. Ta nhập trồng ở vùng cao (Sơn La, Lâm
Đồng). Trồng bằng cành giâm của năm trước, dài 12-20cm, đâm
rễ nhanh. Khi cây trưởng thành, người ta bỏ bớt các gốc đực
để tránh việc tạo thành quả. Để làm thuốc, ta thu hái hoa cái
vào cuối mùa hạ, trước khi chín hoàn toàn. Trên các lá bắc có
những lông tuyến màu nâu có hoạt tính cao hơn. Phơi khô ở
nhiệt độ thấp hơn 60 độ. Mùi thơm sẽ tăng lên khi bảo quản
và gợi lên mùi của valerian. Nếu dập các nón hoa này, các lông
tuyến tách ra, ta lấy được 10-12% lupulin. Đó là một thứ bột màu
vàng, dạng hạt, dễ dính với nhau, nhưng không thấm nước. Quan sát
dưới kính hiển vi thì đó là những lông tiết dài 150-250 micron,
có chân ngắn đa bào và đỉnh là một phần rộng dạng chén gồm
một dây tế bào có tầng cuticun giãn ra dần do sự tích luỹ
nhựa dầu.
Thành phần hóa học: Nón cái của Húp lông
chứa allantoinase, 3,5% một tanin riêng biệt là acid humulotannic,
trimethylamin, các muối kalium, lupulin. Lupulin chứa 1-2% tinh dầu,
nhựa, các chất đắng sáp, các base, một alcaloid tinh dầu màu
lục hay nâu tuỳ thuộc vào nón hoa tươi hay khô, rất thơm và
chứa: 1. Một ether valerianic là valerol khi oxy hoá sẽ cho acid
valerianic tạo ra mùi khó chịu của nón hoa khô; 2. Một sesquiterpen
là humulen. tương đương với a-caryo-
phyllen; 3. Một terpen aliphatic là myrcen. Humulen và myrcen chiếm đến
80-90% tinh dầu.
Trong
lupulin có một chất đắng khi bị tác dụng của các acid sẽ tạo
ra lupuliretin có liên quan tới nhựa của Húp lông, và acid lupulinic
tạo ra vị đắng của nó. Từ nhựa vô định hình, màu nâu có
thể xem như chất cơ bản, người ta đã tách được một chất khá
xác định, có vị đắng là humulol và một chất khác không đắng
là xanthohumol; nhựa còn chứa các acid béo và 3 este.
Các
chất đắng, được gọi là các acid đắng, là humulol và các
lupulon. Nhựa còn chứa acid lactaric và những lượng nhỏ sáp, alcol
cerylic và acid cerotic.
Trong
lupulin có các base có N sau đây: adenin, l- asparagin, acid aspartic,
betain, cholin, histidin và hypoxanthin, arginin. Còn có một alcaloid bay hơi,
tương đương với conicine và nicotine mà người ta gọi là lupuline.
Tính vị, tác dụng: Húp lông từ lâu được
xem như lợi tiêu hoá, bổ đắng, giúp ăn ngon miệng, làm tan đờm,
chặn ho, làm dịu thần kinh, gây ngủ nhẹ. Người ta còn cho là nó
có tính chất gây động dục. Chất lupulin được dùng như thuốc
giảm đau và dịu dục, nhưng với liều cao sẽ gây choáng và nôn.
Các chất đắng humulon và lupulon có tính chất sát trùng. Đông y
xem Húp lông như có vị đắng và thơm, tính bình; có dụng kiện
vị, hoá đàm, chỉ khái, an thần.
Công dụng, chỉ định và phối hợp:
Húp lông đã được dùng từ lâu làm men bia. Người ta cho vào nước
và rắc lên lúa Mạch trước khi lên men, nó sẽ cho mùi thơm và
vị đắng của bia. Được dùng làm thuốc chữa ăn uống không tiêu,
ăn không ngon, trướng bụng, mất ngủ, lao phổi, viêm màng phổi,
sỏi, tràng nhạc, bạch đới, bệnh ngoài da. Dùng ngoài da trị đau
thấp khớp, thống phong, áp xe nguội, ung thư. Người ta dùng 30g nón
Húp lông cho vào 1 lít nước đun sôi. Hãm trong 10 phút. Ngày dùng 3
lần, mỗi lần một chén, trước các bữa ăn. Có thể dùng các nón
hoa nghiền ra, mỗi lần lấy bằng đầu mũi dao, 1-3 lần trong ngày.
Còn dùng dưới dạng cao nước, dạng viên lupulin (0,25g), dạng
cồn thuốc hay cao.
|
|