|
Hương thảo
Hương
thảo, Tây dương chổi - Rosmarinus
officinalis L., thuộc họ Hoa môi - Lamiaceae.
Mô tả: cây nhỏ cao 1-2m, phân nhánh và mọc thành
bụi. Lá nhiều, hẹp, hình dải, dai, có mép gập xuống, không
cuống, màu xanh sẫm và nhẵn ở trên, phủ lông rải rác màu
trắng ở mặt dưới. Hoa xếp 2-10 ở các vòng lá, dài cỡ 1cm, màu
lam nhạt hơi có màu hoa cà với những chấm tím ở phía trong các
thuỳ. Toàn cây có mùi rất thơm.
Mùa
hoa tháng 3-5.
Bộ phận dùng: Ngọn cây có hoa và lá,
chủ yếu là lá khô. Tinh dầu của ngọn cây có hoa - Herba
et Oleum Rosmarini.
Nơi sống và thu hái: Cây của vùng Địa
Trung Hải, được trồng nhiều ở Nam Âu châu, Tây Á và Bắc Phi
trước đây, được nhập trồng ở nước ta, tại một số tỉnh
miền Trung và miền Nam (theo A. Pételot). Thường trồng bằng cách
giâm cành hay gieo hạt. Khi thu hoạch, dùng các ngọn cây có hoa, đem
phơi hay sấy khô, đập lấy lá. Lá tươi được dùng làm gia vị.
Thành phần hóa học: Cây chứa tinh dầu và
tanin. Tinh dầu (0,5% ở cây khô, 1,1-2% ở lá, 1,4% ở hoa) mà thành
phần gồm có a-pinen
(tới 80%), terpen, borneol, acetat bornyl, camphor, cineol và một
sesquiterpen (caryophyllen). Nếu mới cất, tinh dầu là một chất
lỏng không màu hay vàng vàng, về sau sẫm dần và cứng lại, có
thể hoa tan vào rượu theo bất kỳ tỷ lệ nào. Cây chứa choline,
một glucosid không tan trong nước, một saponosid acid, các acid hữu cơ
(citric, glycolic, glyeeric) và hai heterosid là romaside và romarinoside; còn
có acid rosmarinic.
Tính vị, tác dụng: Hương thảo có vị chát,
nóng, mùi thơm nồng, hơi se, có tính tẩy uế và chuyển máu, dùng
với liều thấp, nó gây sự dồn máu ở các cơ quan vùng bụng và
kích thích sự tiết dạ dày và ruột; nó cũng lợi tiểu. Với
liều cao, nó gây co thắt và chóng mặt. Tinh dầu có tác dụng thông
ruột, lợi mật và lợi tiểu. Người ta biết được tác dụng
của Hương thảo là do sự có mặt của acid rosmarinic và các
flavonoid, nó cũng có những tính chất chống oxy hoá cũng do có acid
rosmarinic.
Công dụng, chỉ định và phối hợp:
ở châu Âu, người ta cũng dùng lá Hương thảo làm pommat và
thuốc xoa trị thấp khớp và đau nửa đầu. Nước hãm (nấu một
nắm lá trong ½ lít nước để chiết hết thuốc) dùng rửa các
vết thương nhiễm trùng và lâu khỏi. Dùng trong nước hãm này dùng
lợi tiểu và gây tiết mật. Lá tươi dùng làm gia vị.
Ở
Philippin, Hương thảo cũng rất được ưa chuộng.
Người
ta dùng nước hãm để điều trị viêm giác mạc nhẹ bằng cách
rửa mắt 3-4 lần trong ngày. Người ta cũng dùng nấu nước cho
phụ nữ mang thai tắm và dùng để tắm hơi trị thấp khớp,
xuất tiết và bại liệt. Toàn cây gây kích thích và lợi trung
tiện trong trường hợp trướng bụng, khó tiêu.
Tinh
dầu Hương thảo được sử dụng ở Ấn Độ làm thuốc lợi
trung tiện. Tinh dầu này tham gia vào thành phần Eau de Cologne; người
ta nói rằng nó giữ độ bóng của tóc và cũng là một chất kích
thích khuyếch tán. Có thể dùng trong với liều 3-5 giọt, nhưng thông
thường chỉ dùng đắp ngoài.
|
|