|
Hồi
núi
Hồi
núi, Đại hồi núi, Mu bu (Mèo) - lllicium
griffithii Hook. f et. Thoms., thuộc họ Hồi - llliciaceae.
Mô tả: Cây gỗ cao 8-15m, tán tròn. Lá hình bầu
dục, nhẵn, dai, không rụng, nguyên, dài 8cm, rộng 3cm, xếp 4-5 cái
thành vòng giả: cuống dài 8-10mm. Hoa ở nách lá, đơn độc, có
cuống hoa phát triển sau khi hoa nở, dài hơn cuống lá, thơm mùi
Hồi. Quả có 10-13 đại, xếp toả tròn, dẹp bên, có bầu cụt
ở gốc, hình vuông hay chữ nhật, kéo dài thành mỏ hẹp và cũng
dài bằng bầu, nhọn cong về phía trong như lưỡi liềm.
Hoa
tháng 3-4.
Bộ phận dùng: Rễ, quả - Radix et Fructus lllicii.
Nơi sống và thu hái: Cây của vùng
Viễn Đông, phân bố ở Đông Dương, Malaixia. Ở nước ta, cây
Hồi mọc hoang rải rác trên núi đá vôi ở Lạng Sơn (huyện Chi Lăng),
Hoà Bình (Đà Bắc), các tỉnh Tây Bắc và một số tỉnh phía Nam
như Khánh Hoà (Vọng Phu), Lâm Đồng (Bảo Lộc, Lang Biang).
Thành phần hóa học: Quả Hồi núi cũng chứa
tinh dầu giống tinh dầu cất từ hạt Tiểu hồi.
Tính vị, tác dụng: Quả hồi chứa chất độc.
Mùi vị của dầu lúc đầu hầu như không có, sau có vị chát, thơm
và có pha mùi của ớt và Hồ tiêu.
Công dụng, chỉ định và phối hợp:
Người ta chỉ dùng hạt giã ra để duốc cá, không dùng uống được.
Nếu dùng nhầm sẽ bị ngộ độc: có triệu chứng nôn mửa, rát
họng, đau bụng, chân tay lạnh, chảy nước rãi. Rễ cũng được
dân gian dùng thay quả Hồi.
|
|