|
Ba gạc
Ba gạc, Ba gạc vòng, Tích tiên -
Rauvolfia verticillata (Lour.) Baill, thuộc họ Trúc đào - Apocynaceae.
Mô tả:
Cây nhỏ, cao 1-1,5m. Thân nhẵn,
có những nốt sần nhỏ màu lục sau xám. Lá mọc vòng 3 có khi 4-5; phiến lá hình
ngọn giáo dài 4-16cm, rộng 1-3cm, gốc thuôn, chóp nhọn. Hoa nhỏ màu trắng, hình
ống phình ở họng, mọc thành xim dạng tán kép dài 4-7cm. Quả dài xếp từng đôi,
hình trứng, khi chín có màu đỏ tươi rồi chuyển sang màu tím đen.
Ra hoa tháng 3-12, có quả tháng
5 trở đi. Ở đồng bằng, có khi hoa nở quanh năm .
Bộ phận dùng:
Rễ - Radix Rauvolfiae
Verticilatae, thường có tên là La phụ mộc: Lá cũng được dùng.
Nơi sống và thu hái:
Cây mọc hoang ở Hà
Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Thanh Hoá, Lào Cai. Cùng phân bố ở Trung Quốc. Có thể
trồng bằng hạt hay hom thân cành. Sau 2 năm có thể thu hoạch. Ta thường thu hái
rễ cây mọc hoang, có thể đào quanh năm, nhưng tốt nhất vào mùa thu đông. Ðào rễ
về rửa sạch đất, phơi hay sấy khô.
Loài này đã được khai thác làm
thuốc triệt để và liên tục từ nhiều năm nay, nên hiện nay cây đã hiếm dần.
Thành phần hoá học học:
Trong rễ và lá có
alcaloid toàn phần là 0,9-2,12% (rễ) và 0,72-1,69% (lá) trong đó chủ yếu là
reserpin rescinnamin,
canescin, raunescin, serpentinin,
ranvolfia A (C25H28N2O2).
Tính vị, tác dụng:
Rễ Ba gạc có vị đắng,
tính hàn, hơi có độc, có tác dụng thanh nhiệt hoạt huyết, giải độc, giáng huyết
áp. Nước sắc Ba gạc có tác dụng làm giảm huyết áp có nguồn gốc trung ương, làm
tim đập chậm, lại có tác dụng an thần và gây ngủ.
Công dụng, chỉ định và
phối hợp:
Ðược dùng trị huyết áp cao đau đầu, mất ngủ, choáng váng, đòn ngã, dao chém, sởi,
ngoại cảm thấp nhiệt, động kinh, rắn cắn, ghẻ lở. Hiện nay ta chế thuốc dưới
dạng cao lỏng, chứa 1,5% alcaloid toàn phần, 1g cao bằng 1g vỏ rễ để chữa cao
huyết áp và làm thuốc an thần. Liều dùng trung bình của cao lỏng là 30 giọt một
ngày; có thể tăng lên 45-60 giọt. Thời gian điều trị có thể kéo dài nhưng thường
sau 10-15 ngày cần nghỉ. |
|