|
Ba gạc châu Phi
Ba gạc châu Phi hay Bầu giác -
Rauvolfia vomitoria Afzel ex Spreng, thuộc họ Trúc đào - Apocynaceae.
Mô tả:
Cây nhỡ cao 4-8m, thường là 3-4
m, phân nhánh nhiều. Thân cành màu nâu bạc, có nốt sần và vết sẹo của lá; nhựa
mủ trắng, lá mọc vòng 3-5 cái, phần nhiều là 4, hình ngọn giáo đến bầu dục, dài
tới 20cm, rộng 7cm. Hoa nhỏ, nhiều, màu trắng lục, mọc thành xim hai ngả hình
tán ở nách lá và đầu cành. Cánh hoa xoăn, ống tràng phình ở hai đầu, vòi nhuỵ có
lông ở gốc. Quả đại xếp từng đôi, có khi chỉ có 1 cái phát triển hình trứng hoặc
hình cầu, khi chín màu đỏ cam, hạt dẹt cong, có khía.
Hoa tháng 7-8, quả tháng 9-12.
Bộ phận dùng:
Rễ - Radix Rauvolfiae
Vomitoriae.
Nơi sống và thu hái:
Chỉ mới gặp ở huyện
Phù Ninh tỉnh Vĩnh Phú. Nơi đây thời trước có trạm thí nghiệm trồng cây nhiệt
đới do người Pháp lập ra, có thể là cây nhập từ châu Phi, trữ lượng hiện nay
không đáng kể. Ta có chủ trương khoanh vùng bảo vệ nơi có cây mọc từ nhiều và
gây trồng để giữ giống và phát triển.
Rễ Ba gạc châu Phi có đường kính
4-5cm đến 9cm, mặt ngoài vàng nâu, khía dọc, cũng có thể thu hái như rễ các loại
Ba gạc khác.
Thành phần hoá học:
Chủ yếu là alcaloid
tập trung ở rễ và lá, ở rễ, hàm lượng alcaloid toàn phần là 1-1,5%, tập trung
90% ở vỏ rễ. Cây trồng ở Việt Nam có vỏ rễ chứa 3,28-5,66% alcaloid toàn phần.
Rễ chứa reserpin (0,2%) ajmalin, reserpilin và một số alcaloid đặc biệt thuộc
nhóm yohimbin (sederin) heteroyohimbin, rauvanin (đồng phân của reserpilin)
alstonin (đồng phân của serpentin). Vỏ rễ là nguyên liệu để chiết xuất reserpin,
ajmalin, reserpilin. Lá chứa 1% alcaloid là dẫn chất của heleroyophimbin-oxiadol
tương ứng (rauvocin, rauvocinin). Ngoài ra, lá còn chứa các hợp chất flaconoid
dưới dạng heterosid của kaempferol.
Từ loài Ba gạc này, đã chiết
xuất được 0,05% reserpin và ajmalin.
Tính vị, tác dụng:
Cũng như các loài Ba
gạc khác.
Công dụng, chỉ định và
phối hợp:
Ðược dùng trị huyết áp cao, sốt cao và ăn uống không tiêu. |
|