|
Vối
Vối
- Cleistocalyx operculatus (Roxb.) Merr. et Perry (Eugenia operculata
Roxb.), thuộc họ Sim - Myrtaceae.
Mô
tả: Cây gỗ có kích thước
trung bình. Lá bầu dục hay xoan ngược, thót nhọn ở gốc, có mũi
ngắn ở đầu, nhạt màu, và hơi có chấm nâu trên cả hai mặt, dài
8-9cm, rộng 4-8cm. Hoa gần như không cuống, thành cụm hoa hình tháp
trải ra ở nách những lá đã rụng. Quả hình cầu hay hình
trứng, đường kính 7-12mm, nhám, nhớt.
Hoa
tháng 6.
Bộ
phận dùng: Nụ hoa, vỏ thân, lá - Gemma Florifera, Cortex et Folium
Cleistocalycis Operculati.
Nơi
sống và thu hái: Loài của Á
châu nhiệt đới, Trung Quốc. Ở nước ta, cây mọc hoang và được
trồng nhiều để lấy lá, nụ hoa làm trà uống (nước vối). Thu
hái lá dùng tươi nhưng cũng có thể ủ cho lên men trước khi dùng;
thông thường người ta vẫn dùng lá và nụ tươi phơi khô làm
thuốc.
Thành
phần hóa học: Lá chứa ít
tanin, những vết alcaloid (thuộc nhóm indolic) gần gũi với cafein và
một lượng tinh dầu (4%) bay hơi, thơm. Các bộ phận khác nhau
của cây còn chứa các sterol, các chất béo, tanin catechic và gallic.
Lá và nụ chứa acid triterpenic.
Tính
vị, tác dụng: Vị đắng, chát, tính mát, có ít độc; có tác dụng thanh
nhiệt giải biểu, sát trùng, chỉ dương, tiêu trệ.
Công
dụng, chỉ định và phối hợp:
Lá được dùng làm trà, uống nóng rất thông dụng ở nông thôn
Việt Nam. Hoa nhỏ thu hái vào tháng 6, cũng được dùng pha trà
uống (nụ vối) có thể so sánh với nước hãm lá Bạch đàn. Người
ta cũng thường phối hợp lá Vối với lá Hoắc hương làm nước
hãm uống lợi tiêu hóa. Nước sắc đậm đặc của lá cây dùng
như thuốc kháng sinh, sát trùng để rửa mụn nhọt, lở loét,
ghẻ. Thường dùng lá, vỏ, thân, hoa làm thuốc chữa đầy bụng,
khó tiêu, ỉa chảy, mụn nhọt, viêm đại tràng mạn tính, lỵ
trực trùng.
Ở
Ấn Độ, rễ sắc đặc dạng xirô dùng đắp vào các khớp sưng
đỏ; quả dùng ăn trị phong thấp.
Ở
Trung Quốc, các bộ phận của cây dùng trị cảm mạo, đau đầu
phát sốt, lỵ trực khuẩn, viêm gan, bệnh mẩn ngứa, viêm tuyến
sữa, ngứa ngáy ngoài da, bệnh nấm ở chân, vết thương do dao súng.
|
|