|
Gai
dầu
Gai
dầu, Gai mèo, Lanh mèo - Cannabis sativa L. subsp. satica.,
thuộc họ Gai dầu - Cannabaceae.
Mô tả: Cây thảo sống
hàng năm cao 1-3m; thân vuông có rãnh dọc, phủ lông mềm, sù sì. Lá
thường mọc so le, có cuống, có lá kèm, có phiến chia đều tận
gốc thành 5-7 lá chét, hẹp, hình ngọn giáo, nhọn, có răng cưa.
Hoa đơn tính khác gốc, các hoa đực xếp thành chùm xim kép ở nách
và ở ngọn; các hoa cái xếp thành xim hay xim co ở nách những lá
bắc dạng lá. Quả bé dạng trứng, dẹp, có mũi nhọn ở đầu,
không mở nhưng do áp suất mà tách ra hai nửa và bao bởi hoa tồn
tại. Hạt không có nội nhũ, chứa nhiều dầu.
Hoa
tháng 5-6, quả tháng 7
Bộ phận dùng: Quả - Fructus
Cannabis, thường gọi là Hỏa ma nhân; còn gọi là Đại ma nhân
hay Ma tử.
Nơi sống và thu hái: Cây
của Á châu đới ôn được trồng ở nhiều vùng Âu, Phi, Mỹ châu.
Ở nước ta cây được trồng nhiều ở vùng rẻo cao miền Bắc.
Ðồng bào Mèo thường dùng lấy sợi nên mới có tên là Gai mèo,
và có nơi trồng lấy hạt cho dầu. Trồng bằng hạt vào mùa xuân.
Thu hái quả vào tháng 8-9, dùng ép dầu và làm thuốc. Ðể làm
thuốc, người ta đem hạt sao già để giảm độc ở vỏ, rồi giã
giập sắc uống.
Thành phần hoá học:
Quả chứa 30% dầu khô gồm các glycerid của acid linoleic và
linolenic. Nhân hạt chứa trigonellin L (d)-isoleucine betaine, edestinase.
Tính vị, tác dụng:
Vị ngọt, tính bình; có tác dụng nhuận táo, hoạt trường, thông
tiện.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Dùng trị huyết hư, tân khụy trường táo tiện bí. Dùng
tốt cho chứng táo bón kéo dài ở người già và phụ nữ bị đại
tiện sau khi đẻ. Liều dùng 12-20g giã nhỏ uống.
Ðơn thuốc:
1.
Chữa chứng táo bón: Nhân hạt Gai dầu và hạt Tía tô lượng
bằng nhau, giã nhỏ, cho vào nước ngâm hoặc đun sôi, bỏ bã,
lấy nước nấu cháo ăn.
2.
Chữa đi lỵ ra máu không dứt: Nhân hạt Gai dầu nấu với Ðậu
xanh ăn.
3.
Chữa trong khi có thai, thai bị tổn thương sinh đau bụng. Hạt Gai
dầu 30g đập giập sao thơm, sắc uống.
4.
Chữa phong độc, xương tuỷ đau nhức: Nhân hạt Gai dầu sao thơm,
ngâm rượu uống.
ở
nước ta, đồng bào miền núi thường dùng Gai dầu để lấy sợi
dệt vải và cũng để lấy hạt chế dầu.
Ghi chú: Thuộc loại này,
có một phân loài (subsp indica (Lam) Small) mà ta gọi là Cần sa.
Cần sa cũng như Gai dầu đã được sử dụng trong y học thời thượng
cổ như là thuốc giảm đau và sát trùng khi dùng ngoài. Dược
học hiện đại dùng dưới dạng cồn thuốc và chiết xuất để
dùng trong làm thuốc giảm đau (Nhất là đau dạ dày và một số
bệnh thần kinh) và dùng ngoài như là sát trùng và chữa bỏng. Các
chế phẩm thường khó bảo quản. Nhưng vì những tác hại mà nó
có thể gây ra nên người ta đề nghị cấm dùng và từ 1-1-1965
ở Pháp đã không cho phép dùng nữa. Trong y học á đông nhất là
Ấn Độ, người ta dùng làm thuốc hút vì tính chất làm say gây
ra cảm giác khoan khoái nhẹ, nghe rõ, thấy màu đẹp, và nó đã
trở thành đối tượng buôn bán gian lận từ lâu. Hoạt chất là
một chất nhựa nằm trong các ngọn cây có hoa cái và quả. Chất
này đã được nghiên cứu từ thế kỷ thứ 19 và từ năm 1940, người
ta đã tách được một số thành phần, bao gồm các hợp chất không
có N, tức là cannabinol và được lấy ra ở trạng thái acetat kết
tinh. Nó chứa một nhân acetyl-resorcinol và một nhân p-cymen. Còn
một hợp chất diphenol khác là cannabidiol đã được lấy ở
trạng thái dinitrobenzoat kết tinh. Những sưu tầm mới đây (1974)
cho thấy nhựa Gai dầu tác động vào nhiễm thể (tức là vào sự
di truyền) vào hệ thống miễn dịch, vào hệ thống điều hoà kích
thích tố và vào trung khu thần kinh. Chất chính gây ra các xáo
trộn đó là tetrahydrocannabinol. Công ước thống nhất về các
chất gây mê (New York 1971) do các uỷ viên có thẩm quyền của 74 nước
đã họp và xem nó là một vị thuốc độc (trong lúc đó người
ta chưa biết rõ chất chính gây ra các sự xáo trộn) nên đã đặt
việc trồng cây Gai dầu cũng như việc buôn bán cây này dưới
sự kiểm soát chung và cấm dùng cây này ngoài mục đích là để
làm thuốc.
Cũng
cần lưu ý là quả cây này dù được sử dụng làm thuốc ăn cho
các loài chim nhỏ; dầu khô của nó dùng để sơn; khô dầu của nó
giàu về protein, dùng làm thức ăn cho gia súc.
|
|