|
Cải
củ
Cải
củ, Rau lú bú - Raphanus sativus L., var.
longipinnatus Bail., thuộc họ Cải - Brassicaceae.
Mô
tả: Cây thảo sống hằng năm,
có rễ củ trắng, có vị nồng cay, dài đến 40 cm (có thể đến
1m), dạng trụ tròn dài, chuỳ tròn hay cầu tròn. Lá chụm ở đất,
có khía sâu gần đến gân chính. Chùm đứng; hoa trắng hay đỏ; 6
nhị; 4 dài, 2 ngắn. Quả cải hình trụ có mỏ dài, hơi eo giữa các
hạt; hạt hình tròn dẹt, có một lưng khum, mặt bụng tạo nên 1
cạnh lồi ở giữa, dài 2,5-4mm, rộng 2-3mm, màu nâu đỏ hoặc màu
đen.
Bộ
phận dùng: Rễ củ, lá và
hạt – Radix, Folium et Semen Raphani;
người ta thường gọi Củ cải là Bặc căn; và hạt là Lai phục
tử, La bặc tử.
Nơi
sống và thu hái: Cải củ đã
được trồng từ thời thượng cổ ở Trung Quốc và ở Ai Cập.
Do sự trồng trọt mà người ta đã tạo ra những dạng và giống
trồng khác nhau. Ta thường trồng nhiều giống; giống sớm (40-50
ngày) như giống tứ thời; giống vừa (3 tháng) như giống Tứ Liên,
Quất Lâm, Thái Lan, số 8, số 9 VCTL và giống muộn (120-150 ngày)
như các giống Hải Ninh, Trường Giang (Trung Quốc).
Cải
củ yêu cầu khí hậu mát vừa có thể sinh trưởng ở nhiệt độ
15-28oC, tốt nhất 17-18oC. Thời kỳ ra củ cần
nhiệt độ hơi thấp (ngày ấm đêm mát). Lúc ra hoa, kết quả,
chịu ẩm hơn các loại cải khác nhưng không chịu được nắng
hạn kéo dài với nhiệt độ trên 32oC. Ở miền Bắc
Việt Nam, thường gieo vào tháng 8-10 gieo muộn không có củ. Năng
suất trung bình của cải củ là 25-30 tấn/ha, có thể đạt 40-50
tấn/ha và hơn nữa tuỳ theo giống trồng, chịu nóng, lớn nhanh.
Ở Đà Lạt có trồng cải Radi - Raphanus,
sativus L. var. radicula Pers. có rễ củ thường tròn, to 2-3cm, thường
có màu đỏ; lá xẻ ra hay không, chụm ở gốc, chùm hoa đứng mang
nhiều hoa đỏ tím, ít khi trắng có sọc đậm.
Thành
phần hóa học: Củ cải
trắng chứa 92% nước, 1,5% protid, 3,7% glucid, 1,8 celluloz. Trong lá tươi
có 83,8% nước, 2,3%protid, 0,1% lipid, 1,6% cellulose và 7,4% dẫn xuất
không protein. Củ tươi chứa glucose, pentosan, adenin, arginin, histidin,
cholin, trigonellin, diastase, glucosidase, oxydase, catalase, vitamin A, B, C;
còn có allyl isothiocynat, oxalic acid. Lá và ngọn chứa tinh dầu và
một lượng đáng kể vitamin A và C. Hạt chứa 30-40% dầu béo mà
thành phần chủ yếu là hợp chất sulfur; còn có raphanin là một
chất kháng khuẩn đối với nhiều loại vi khuẩn. Rễ chứa
glucosid enzym và Methyl mercapten.
Tính
vị, tác dụng: Củ cải có
vị ngọt, hơi cay, đắng, tính bình, không độc, có tác dụng làm
long đờm, trừ viêm, tiêu tích, lợi tiểu, tiêu ứ huyết, tán
phong tà, trừ lỵ. Nó giúp khai vị, làm ăn ngon miệng, chống
hoại huyết, chống còi xương, sát khuẩn nói chung, lọc gan và
thận. Củ khô cũng làm long đờm. Hạt có vị cay ngọt, mùi thơm,
tính bình; có tác dụng thông khí, tiêu đờm, trừ hen suyễn, lợi
tiểu, nhuận tràng, tiêu tích. Lá Củ cải cũng có vị cay, đắng,
tính bình, có tác dụng tiêu tích, làm long đờm. Nhựa lá tươi
lợi tiểu, nhuận tràng.
Công
dụng, chỉ định và phối hợp:
Cải củ được trồng lấy lá non luộc ăn, lá già muối dưa và
để lấy củ. Củ cải là loại thực phẩm tương đối dễ sử
dụng. Có thể dùng chế biến nhiều món ăn như luộc, kho với
thịt, với cá, xào mỡ, xào thịt, nấu canh hoặc làm gỏi với tép,
thịt lợn nạc; còn dùng muối dưa ăn xổi, làm dưa ăn quanh năm
(ngâm trong nước mắm), làm củ cải muối, phơi khô dự trữ để
làm dưa góp khi cần. Trong y học dân tộc, củ cải được dùng
trong trường hợp ăn uống không ngon miệng, dùng trị bệnh hoại
huyết, còi xương, thiếu khoáng, lên men trong ruột, đau gan mạn tính,
vàng da, sỏi mật, viêm khớp, thấp khớp và các bệnh về đường
hô hấp (ho, hen). Đông y cũng dùng củ cải chữa bệnh lỵ, giải
độc và dùng ngoài đắp trị bỏng. Hạt dùng chữa chứng phong đờm,
thở suyễn, lỵ, mụn nhọt, đại tiểu tiện không thông, lại phá
được trệ khí. Lá dùng chữa khản tiếng, chữa xuất huyết ở
ruột, khái huyết và còn dùng chữa suyễn cho người già.
Đơn
thuốc:
1.
Bỏng: Dùng củ Cải giã nát đắp.
2.
Chữa cảm phong: Dùng 2 thìa xúp nước củ cải đổ vào 750ml nước,
thêm 2 thìa tương đậu nành, nằm trên giường mà uống, mồi hôi
toát ra sẽ hết sốt.
3.
Chữa chứng phù nề: Nạo củ cải ép lấy nước, bỏ vào 2 phần
nước và ít muối, nấu sôi một lúc, mỗi ngày uống 1 lần; không
nên dùng quá 3 ngày. Hoặc lấy 40 hạt củ cải sắc uống sẽ tiêu
nước, xẹp đi rất nhanh.
4.
Bị nhiễm khói than chết ngất: Dùng củ hay lá Cải củ giã nhỏ,
vắt lấy nước cốt đổ cho uống thì tỉnh.
5.
Tiêu ung nhọt: Hạt Cải củ giã nhỏ, hoà giấm bôi lên.
6.
Chữa ho nhiều đờm, suyễn, khó thở, tức ngực: Dùng củ cải
(La bặc tử) hạt Tía tô (Tô tử) 10g, hạt Cải (Bạch giới tử)
3g, các vị sao tán nhỏ, cho vào túi vải, thêm 300ml nước, sắc còn
100ml, chia 3 lần uống trong ngày.
|
|