|
Chuối
Chuối
- Musa spp, thuộc họ Chuối - Musaceae.
Mô
tả:
Chuối có thân rễ to, từ đó mọc ra những lá rất to dài tới
2m, có các bẹ lá úp vào nhau tạo thành một thân giả hình trụ
cao tới 3-4m hay hơn. Khi cây chuối còn non, ta ăn nõn chuối, chính
là nõn thân giả; còn thân thật là phần nằm dưới đất mà ta
thường gọi là củ chuối. Khi chuối ra buồng, ta mới thấy một
cán hoa từ củ chuối mọc lên xuyên qua thân giả lồi ra ở phía
ngọn. Cụm hoa chuối là một bông gồm nhiều lá bắc màu đỏ úp
lên nhau thành bắp chuối, hình nón dài; ở kẽ mỗi lá bắc có
khoảng 20 hoa xếp thành 1 nải chuối 2 tầng; hoa ở giữa thường
là hoa lưỡng tính, ở phía ngọn là hoa đực ở phía gốc là hoa
cái. Quả mọng còn mang dấu vết của vòi nhuỵ. Chuối trồng được
tạo thành do kết quả của sự lai tự nhiên giữa hai loài chuối
hoang dại ở Ðông Nam Á là chuối hột và chuối rừng. Ngày nay,
người ta ước lượng có đến 200-300 giống chuối được trồng
trên thế giới. Hầu hết chuối ăn quả đều thuộc loài Musa
paradisiaca L. với 11 thứ khác nhau bởi hình dạng quả, màu
sắc và vị của thịt quả. Thứ Chuối tiêu (chuối già) có giá
trị trên thị trường thế giới thuộc var. sapientum Kumtze (Musa
sapientum L.). Lại có loài khác là Musa nana Lour mà ta gọi là
chuối già lùn có thân chỉ cao 1-2m, có quả và lá y như Chuối già;
buồng thòng, cong, mo màu đỏ, quả xanh hay vàng vàng, thịt ngà. Loài
Musa cavendishii Lamb, hay Musa chinensis Sw.. có khi được
nhập vào loài này; cũng có người xem nó như là một thứ của loài
Chuối. Lại còn loài Musa chiliocarpa Back... gọi là Chuối
trắm nải, có thân giả cao đến 3m, có buồng dài đến sát đất
mang nhiều nải, quả vàng dài 6-7cm, không hạt, thịt ngọt.
Bộ
phận dùng:
Nhiều bộ phận khác nhau của cây, chủ yếu là quả - Fructus
Musae.
Nơi
sống và thu hái:
Ở nước ta, Chuối trồng có nhiều giống. Người ta sắp xếp các
giống phổ biến vào hai nhóm: - Nhóm giống Chuối tiêu (Chuối già)
có đến 5 giống mà phổ biến là giống lùn cao và lùn thấp là
giống Chuối ăn tươi điển hình có bột chuyển hết thành đường,
dễ tiêu hoá, có quả cong, vỏ dày, thường trồng ở đồng bằng
sông Hồng và sông Chu. Nhóm giống Chuối tây (Chuối sứ) có quả
to và ngắn hơn Chuối tiêu, vỏ cũng mỏng hơn; có giá trị calo
cao hơn Chuối tiêu lại có nhiều bột hơn, nên có thể luộc, có
thể chiên; dùng làm rau (nõn thân giả, hoa chuối) ít chát hơn
chuối tiêu. Thường được trồng nhiều nhất. Còn có các giống
Chuối khác như Chuối Bôm, có quả hơi chua nếu chưa chín kỹ,
buồng nhỏ, quả nhỏ; Chuối bột không ăn tươi mà để lấy tinh
bột; chuối ngự, chuối cau có quả nhỏ, ngắn tròn lẳn, vàng,
vỏ mỏng, thơm ngon nhưng khó vận chuyển và buồng nhỏ, sản lượng
lại thấp; chuối lá quả dài 4 cạnh; chuối hột quả to thẳng 5
cạnh, có hạt.
Chuối
là cây kém chịu rét và gió mạnh, cần nhiều nước nhưng ưa đất
thoát nước và đất tốt có nhiều nitrogen và kalium. Lượng mưa
đều 120-150mm hàng tháng là tốt nhất; khô hạn trên 2 tháng liền
thì phải tưới. Nhiệt độ thích hợp 25-30oC, tối thiểu tuyệt
đối trên 12oC. Nắng cần vừa phải; nếu nắng gắt thì cây cháy
lá, nám quả; trời âm u, cây mọc vóng và kéo dài thời gian sinh
trưởng. Năng suất trung bình 150 buồng/1 ha, nặng 15-20kg/buồng.
Thành
phần hoá học:
Quả chuối xanh chứa 10% tinh bột, chuối chín có tỉ lệ g%: glucid
16-20; tinh bột 1,2; protid 1,32; lipid 0,5; theo tỉ lệ mg%: calcium 8,
kalium 28, sắt 0,5 và các vitamin PP 0,07, vitamin C 0,6. Còn có Mg, Na, các
chlorur, phosphat, lưu huỳnh, kẽm. Xét về mặt dinh dưỡng, chuối có
giá trị hơn cả khoai tây và tương đương với thịt, cứ 100g có
thể cho 100 calo và dễ tiêu hoá. Trong Chuối có 2 hợp chất quan
trọng về mặt sinh lý là serotinin và nore-pinephrin, cùng với
dopamin và một catecholamin chưa xác định. Do có các hoạt chất này
mà Chuối có những ứng dụng quan trọng trong y học (chữa đau
tạng phủ, táo bón, loét ống tiêu hoá...). Bầu của hoa chuối
chứa tryptophan và các hợp chất Indol.
Tính
vị, tác dụng:
Chuối xanh phơi khô ở nhiệt độ thấp rồi tán bột ăn hàng ngày,
kích thích sự tăng trưởng của màng nhầy lót bên trong dạ dày
bằng cách tạo thêm những tế bào sản xuất chất nhầy, không
những nó làm cho màng nhầy dày lên đến mức để tránh không
bị lở loét dễ dàng mà còn có thể hàn gắn nhanh chóng bất kỳ
chỗ loét nào hiện có. Chuối xanh còn có tác dụng diệt nấm, làm
se. Quả Chuối chín nhuận tràng, chống scorbut và làm dịu. Chuối
chín thúc đẩy sự lên da non của các vết thương tổn của ruột
trong viêm ruột kết có loét. Thân giả và rễ củ chống scorbut;
rễ trị giun.
Công
dụng, chỉ định và phối hợp: Chuối dùng tốt cho trẻ thơ, trẻ em đang
độ lớn, cho người dưỡng sức, cho người già, cũng như cho
những người lao động trí óc và chân tay. Nó giúp ích cho hệ xương,
cho sự sinh trưởng, cho sự cân bằng thần kinh. Cũng dùng tốt cho
những người bị bệnh khớp. Người suy nhược nên dùng ăn hàng
ngày. Nhưng do vì nó giàu hydrat carbon nên không phù hợp với người
bị bệnh đái đường. Chuối còn dùng để chữa bệnh ỉa chảy
và kiết lỵ. Người ta nhận thấy chuối dùng có kết quả trong
việc chống các rối loạn ruột và dạ dày, đặc biệt là chống
các bệnh ỉa chảy cấp tính và mạn tính, bệnh viêm ruột. Ở
Ấn Độ, người ta dùng bột chuối xanh để điều trị những
bệnh nhân bị loét dạ dày có kết quả rõ rệt... Vì vậy một
khẩu phần ăn có chuối xanh chắc chắn giúp tránh được bệnh loét
dạ dày. Quả chuối xanh còn non dùng chữa hắc lào mới phát; trước
tiên ta rửa sạch chỗ lở ngứa bằng nước nóng, gãi cho trượt
da ra, lau khô, rồi lấy một quả chuối vừa bẻ trên buồng ra,
cắt dần từng lát, cho nhựa chuối tiết ra mà chấm, bôi, xát vào
chỗ ngứa. Làm 4-5 lần sẽ khỏi.
Nhân
dân ta còn dùng cả củ Chuối (thân, rễ) giã lấy nước cốt,
hoặc dùng lóng nứa tép đâm sâu vào thân cây hứng lấy nước
trong uống trị sưng tấy, làm thuốc giải nhiệt chữa nóng quá phát
cuồng. Hoặc dùng cây non cắt ngang, lấy phần non ở giữa (của
thân giả) giã nhỏ đắp để cầm máu vết thương. Lá non dùng băng
bó để làm dịu vết bỏng, vết cháy. Ở Ấn Độ, thân giả và
củ Chuối dùng chữa rối loạn về máu và trị bệnh hoa liễu. Còn
nhựa cây được dùng trị bệnh đau về thần kinh như icteria và
động kinh, trị lỵ và ỉa chảy và làm nước giải khát khi bị
thổ tả.
|
|