|
Chóc
Chóc,
Củ chóc, Bán hạ ba thuỳ -Typhonium trilobatum (L.) Schott,
thuộc họ Ráy - Araceae.
Mô
tả:
Cây thảo cao 30-50cm, có thân củ gần hình cầu, đường kính đến
4cm. Lá hình mũi mác chia làm ba thuỳ hình trái xoan; cuống lá dài
25-30cm, phình thành bẹ. Cụm hoa là một bông mo, mo có phần ống
thuôn dài 2,5cm, và phần phiến hình trái xoan thuôn nhọn, mặt ngoài
màu lục, mặt trong màu đỏ bầm, rộng 5-6cm. Trục hoa màu hồng,
mang nhiều hoa nhỏ, kéo dài thành một phần hình dùi, phần không
sinh sản dài màu đỏ điều. Quả mọng hình trứng.
Cây
ra hoa đầu mùa hạ.
Bộ
phận dùng:
Thân rễ - Rhizoma Typhonii.
Nơi
sống và thu hái:
Cây của vùng Ấn Độ - Malaixia mọc hoang trên đất trũng ẩm mát,
bờ ao, ven suối, ở vườn, ven đường đi, đặc biệt phong phú trên
các vùng đất phù sa bãi sông; gặp nhiều ở vùng đồng bằng.
Thu hái củ từ tháng 7-12 rửa sạch, để nguyên hoặc thái miếng
mỏng, phơi khô hoặc chế thành Nam tinh. Trước hết ngâm nước nóng
một ngày đêm cho sạch nhựa, rồi ngâm với nước bồ kết một
ngày đêm, với nước phèn chua một ngày đêm, sau đem nấu với
Gừng. Dùng Gừng sống 150g cho 1kg củ chóc, giã nát chế nước vào
ngâm với củ Chóc trong một buổi, lại đổ ngập nước, nấu
trong 2 giờ, đem phơi sấy khô. Nếu còn ngứa, thì lại nấu với
nước Gừng lần nữa cho đến khi hết ngứa mới dùng. Theo quy định
của Dược điển Việt Nam, thì phải ngâm củ Chóc vào nước vo
gạo 1-2 ngày rồi vớt ra, rửa sạch, ngâm với phèn chua trong hai
ngày. Khi nhấm không còn cay thì vớt ra, rửa sạch để ráo nước.
Giã hơi giập, phơi qua, phân loại củ to, củ nhỏ, tẩm nước
gừng, ủ 2-3 giờ rồi đem sấy cháy cạnh. Bảo quản nơi khô ráo.
Thành
phần hoá học:
Dịch chiết cồn củ Chóc chứa b-
sitosterol, 2 sterol chưa xác định và một chất kết tinh. Củ Chóc
của Việt Nam chứa alcaloid.
Tính
vị, tác dụng:
Củ Chóc có vị rất cay và có tác dụng kích thích mạnh, Hoạt
chất gây cay là một chất dễ bay hơi nên qua quá trình đun nóng
hoặc phơi khô thì vị cay không còn nữa. Khi đã chế thành dạng
Nam tinh thì vẫn còn ít vị cay ngứa, tính ấm, có độc, tán phong
đờm, kết hạch, sưng tấy, sát trùng, hạ khí tiêu nước ứ đờm
đọng, cầm nôn oẹ.
Công
dụng, chỉ định và phối hợp: Thường dùng trị nôn mửa ở phụ nữ có
thai, nôn mửa trong trường hợp viêm dạ dày mạn tính, chữa ho,
hen suyễn nhiều đờm, họng viêm có mủ, đau đầu hoa mắt, tiêu
hoá kém, ngực bụng trướng đầy.
Liều
dùng 6-12g củ Chóc, dạng thuốc sắc. Dùng ngoài, lấy củ chóc tươi
(có thể dùng toàn cây) giã nát, đắp tại chỗ chữa rắn cắn,
mụn nhọt, viêm vú, viêm mủ da, đòn ngã tổn thương chảy máu.
Củ có nhiều bột dùng được làm bột ăn.
Ở
Ấn Độ, người ta dùng củ làm thuốc chữa trĩ, dùng ăn với
Chuối chữa bệnh đau dạ dày và đắp ngoài chữa các vết cắn
của rắn độc.
Ðơn
thuốc:
1.
Chữa kinh giản lưng gáy cứng đờ, miệng chảy đờm rãi, hoặc
trúng phong méo mồm lệch mắt. Nam tinh, Kinh giới và Gừng sống đều
12g sắc uống. Ngoài dùng củ Chóc chuột giã nát hoặc tán bột
trộn với nước Gừng đắp vào sau gáy và bên mặt không méo
(nếu tê liệt mắt).
2.
Chữa hen suyễn: Nam tinh tán bột trộn với mật bò hay mật lợn
vừa đủ dính (độ 30%) đặt trên sanh đồng sấy khô, làm viên
với hồ, uống mỗi lần 2-3g, ngày uống 3-4 lần với nước
Gừng. Khi đang lên cơn thì uống với nước sắc Hẹ và Gừng,
mỗi vị 10g.
3.
Ðinh nhọt và viêm mủ da; lấy một lượng củ Chóc vừa phải
nghiền bột, trộn thêm ít bột Hồng hoàng làm chất bột dẻo để
đắp.
Kiêng
kỵ:
Người cơ thể suy nhược, khô tân dịch, khát nước, đại tiện
táo, ho
khan và người có mang không dùng.
|
|