|
Cau
Cau
- Areca catechu L., thuộc họ Cau -
Arecaceae.
Mô
tả: Cây cao tới 15-20m, có thân
cột mang chùm lá ở ngọn. Lá có bẹ dày, phiến xẻ lông chim.
Cụm hoa là bông mo phân nhánh có mo sớm rụng. Trong cụm hoa, hoa đực
thường ở trên, hoa cái ở dưới; hoa đực có mùi thơm. Quả
hạch hình trứng, chứa một hạt tròn có nội nhũ xếp cuốn, khi
già màu nâu nhạt.
Hoa
tháng 2-8, quả tháng 11-5.
Bộ
phận dùng: Hạt khô - Semen
Arecae, thường gọi là Tân lang. Vỏ quả ngoài và vỏ giữa -
Pericarpium Arecae, thường có tên là Đại phúc bì.
Nơi
sống và thu hái: Cây của vùng
Ấn Độ - Malaixia, được trồng ở nhiều nước, từ Malaixia qua
Philippin, Thái Lan, các nước Đông Dương, Trung Quốc, Ấn Độ,
Madagascar và vùng Đông Phi. Ở nước ta, Cau được trồng từ lâu
đời và khá phổ biến khắp các vùng nông thôn để lấy quả ăn
trầu và hạt làm thuốc. Trồng bằng hạt vào mùa xuân. Sau 5-6 năm
mới có thu hoạch; mỗi buồng cau có tới 200-300 quả. Thu hái
những quả cau già để lấy hạt và vỏ quả. Hạt phơi hoặc
sấy đến thật khô. Khi dùng đem hạt khô ngâm nước 2-3 ngày cho
mềm, Mỗi ngày thay nước một lần (không nên ngâm vào dụng cụ
bằng sắt, vì trong hạt có tanin). Vớt ra để ráo nước, thái
mỏng, phơi hoặc sấy ở nhiệt độ 40-50oC tới độ ẩm
dưới 10% (không được sao). Vỏ quả đem rửa sạch, ủ mềm một
đêm, xẻ tơi, phơi hoặc sấy khô tới độ ẩm dưới 10%, tẩm rượu
sao (tuỳ theo đơn) có thể nấu thành cao đặc. Cần bảo quản nơi
khô ráo, thỉnh thoảng xông hơi lưu huỳnh để phòng mốc mọt.
Thành
phần hóa học: Trong hạt cau có
dầu béo 10-15%, protid 5-10%, glucid 50-60%, tanin 15%, alcaloid ở dạng
kết hợp với tanin 0,3-0,5%. các alcaloid chính là arecolin, arecaidin
(arecain) guvacolin, guvacin và isoguvacin, arecolidin. Vỏ quả cũng chứa
những alcaloid như ở hạt (arecolin, guvacolin, guvacin...) nhưng với hàm
lượng rất thấp.
Tính
vị, tác dụng: Hạt Cau có
vị cay, đắng, chát, tính ấm, có tác dụng tiêu tích, hành thuỷ
sát trùng, trừ giun sán. Vỏ quả Cau có vị ngọt, hơi the, tính
ấm, có tác dụng thông khí, hành thuỷ, thông đại tiểu trường.
Người
ta đã biết được arecolin, hoạt chất chính trong hạt Cau là
chất cường đối giao cảm, như muscarin. Nó làm tăng sự tiết
dịch và làm co đồng tử. Với liều thấp, nó kích thích thần
kinh; với liều cao, nó làm liệt thần kinh. Nó làm tăng nhu động
ruột, làm tê bại cơ sán như kiểu nicotin, nghĩa là ức chế các
hạch thần kinh, khớp thần kinh cơ, làm cho sán không bám vào thành
ruột được.
Công
dụng, chỉ định và phối hợp:
Hạt Cau được chỉ định dùng trị bệnh sán xơ mít, giun đũa, sán
lá, thuỷ thũng cước khí, dùng kích thích tiêu hoá, chữa viêm
ruột ỉa chảy, lỵ, chốc đầu. Thường dùng 0,5-1g/ngày, dạng
thuốc sắc; với liều cao, dùng trục sán. Vỏ quả Cau dùng trị
thuỷ thũng cước khí, bụng đầy trướng, bí tiểu tiện, phụ
nữ có thai phù thũng. Ngày dùng 6-12g, dạng thuốc sắc, thường
phối hợp với các vị thuốc khác (vỏ rễ Dâu, vỏ Chân chim,
vỏ Khủ khởi, Gừng sống).
Cách
dùng: Để tẩy sán, phối hợp với hạt Bí ngô. Buổi sáng, lúc
đói, ăn 40-100g hạt bí đã bóc vỏ, sau đó 2 giờ, uống nước
sắc Hạt cau với liều 50-80g tuỳ người, đun với 500ml nước,
sắc còn 150ml uống một lần; nửa giờ sau uống một liều thuốc
tẩy. Nằm nghỉ đợi khi buồn đi ngoài thì đi vào một chậu nước
ấm.
Đơn
thuốc:
1.
Chữa sốt rét: Hạt Cau 2g. Thường sơn 6g, Thảo quả 1g, Cát căn
4g, nước 600ml, sắc còn 200ml, chia 3 lần uống trong ngày.
2.
Chữa khó tiêu, đầy trướng bụng: Dùng hạt Cau 10g, Sơn tra 10g,
sắc nước uống.
3.
Trục giun đũa: Dùng 21 hạt Cau sao tán nhỏ, nhịn ăn, chia uống làm
2-3 lần trong một ngày với nước sắc vỏ quả Cau làm thang (Bách
gia trân tàng).
4.
Trẻ em bị chốc đầu: Dùng hạt Cau mài lấy bột phơi khô hoà
với dầu Vừng mà bôi.
|
|