|
Ớt
Ớt
- Capsicum frutescens L. (C. annum L.), thuộc họ Cà - Solanaceae.
Mô
tả: Cây bụi nhỏ cao 0,5-1m,
phân cành nhiều. Lá nguyên, mọc đối, hình trái xoan nhọn. Hoa
mọc ở nách lá, thường đơn độc, ít khi thành đôi. Ðài hợp hình
cái chuông. Tràng hình bánh xe hay hình chuông, chia 5 thuỳ, màu
trắng hay vàng nhạt. Nhị 5, bầu 2-3 ô. Quả mọng, có hình dạng,
khối lượng và màu sắc khác nhau: thuôn, mảnh hẹp, tròn, màu đỏ,
vàng, tím, xanh tuỳ thứ. Hạt hình thận dẹp.
Bộ
phận dùng: Quả, rễ, thân, cành - Fructus, Radix, Caulis et Ramulus
Capsici Frutescentis.
Nơi
sống và thu hái: Gốc ở Nam
Mỹ châu (Brazil) được nhập từ lâu, nay phổ biến khắp nơi. Ta
thường dùng quả làm gia vị, dùng tươi hay phơi khô. Lá thu hái
quanh năm, dùng tươi.
Thành
phần hoá học: Vỏ quả chứa
alcaloid chính là capsaicine (0,2%) và sắc tố carotenoid là capsanthine
(0,4), adenine, betaine và cholien. Quả chín đỏ chứa một lượng
lớn vitamin C lên tới 200-400mg%.
Tính
vị, tác dụng: Quả ớt có vị cay, tính nóng; có tác dụng ôn trung tán hàn,
kiện vị tiêu thực. Quả dùng trong có tính chất kích thích dạ dày,
kích thích chung và lợi tiểu; dùng ngoài làm thuốc chuyển máu và
gây xung huyết. Rễ hoạt huyết tán thũng. Lá ớt có vị đắng, tính
mát, có tác dụng thanh nhiệt giải độc, sát trùng, lợi tiểu.
Công
dụng, chỉ định và phối hợp:
Quả ớt dùng trị ỉa chảy hắc loạn, tích trệ, sốt rét. Lá
ớt dùng trị sốt, trúng phong bất tỉnh và phù thũng.
Ở
Thái Lan, quả được dùng làm thuốc long đờm trị giun ký sinh cho
trẻ em và làm thuốc hạ nhiệt.
Ở
Trung Quốc, quả dùng trị tỳ vị hư lạnh, dạ dày và ruột trướng
khí, ăn uống không tiêu. Rễ dùng ngoài trị nẻ da. Lá trị thủy
thũng. Hạt trị phong thấp.
Trong
Tây y, thường được chỉ định dùng trong chứng khó tiêu do mất
trương lực, lên men ruột, ỉa chảy, kiết lỵ, nôn mửa không
cầm được, xuất huyết tử cung, thấp khớp, thống phong, thủy
thũng, viêm thanh quản. Dùng ngoài chữa ho co cứng, một số chứng
bại liệt, đau dây thần kinh do khớp, đau lưng, thống phong.
Cách
dùng: Quả dùng uống trong với liều thấp (để tránh gây nôn
mửa, ỉa chảy, viêm dạ dày và thận). Có thể dùng bột ớt
0,30g-1g trong 1 ngày, dạng viên, hoặc dùng cồn thuốc (1 phần ớt,
2 phần cồn 33), hoặc dùng 1-4g hàng ngày trong một pôxiô, hoặc dùng
nấu ăn. Nếu dùng ngoài, dùng cồn thuốc tươi để bó hoặc dùng
bông mỡ sinh nhiệt trong chứng đau thần kinh do thấp khớp hay
ngộ lạnh. Lá giã nát vắt lấy nước cốt uống trị sốt, trúng
phong bất tỉnh và trị rắn cắn (dùng bã đắp ngoài). Lá sao vàng
sắc uống trị phù thũng. Ngày dùng 20-30g.
Đơn
thuốc:
Chữa cá trê đâm: Dùng trái ớt chín, đâm ra lấy chất cay chà vào
vết bị cá đâm, sẽ giảm đau liền. (An Giang).
|
|