|
Ngải
tiên
Ngải
tiên - Hedychium coronarium Koenig,
thuộc họ Gừng - Zingiberaceae.
Mô tả:
Cây thảo cao 1-2m, có thân giống cây Gừng. Lá không cuống, hình mũi
mác hay hình dải mũi mác, nhọn cả hai đầu, nhẵn ở mặt trên,
có lông dễ rụng ở mặt dưới, dài tới 60cm, rộng 12cm, thon.
Cụm hoa hình trứng, dạng nón của cây thông; lá bắc hẹp. Hoa to
màu trắng, rất thơm; đài dạng ống không có răng, tràng có ống
dài và có 3 thuỳ hẹp; nhị có chỉ nhị trắng, nhị lép xoan ngược,
có móng dài; cánh môi xoan ngược có móng dài, chẻ đến tận
giữa thành 2 thuỳ tròn.
Ra
hoa từ tháng 6-10.
Bộ phận dùng:
Thân rễ, quả - Rhizoma et Fructus
Hedychii Coronarii.
Nơi sống và thu hái:
Loài phân bố ở Ấn Độ, Nam Trung Quốc, Malaixia, Úc và Việt Nam.
Cây mọc ở những vùng có khí hậu mát lạnh và được trồng
rộng rãi khắp nước ta. Thu hái thân rễ vào mùa thu, đông; dùng
tươi hay phơi khô.
Thành phần hoá học:
Hoa chứa 0,05-0,07% một chất sánh với mùi thơm gia vị, cho ra
50-57,8% một chất dầu đặc. Nếu chưng cất bằng hơi nước,
chất đông đặc và chất dầu này sẽ cho tinh dầu (hàm lượng
19%) có giá trị cao trong hương liệu. Rễ tươi chứa tinh dầu
(1,7%) mà trong thành phần có eucalyptol.
Tính vị, tác dụng:
Vị cay, mùi thơm, tính ấm; có tác dụng khư phong trừ thấp, ôn
trung tán hàn. Tinh dầu có tính gây trung tiện, trừ giun.
Công dụng:
Thường được dùng chữa đau bụng: Thân rễ khô 6-12g sắc uống
hoặc tán bột uống. Cũng dùng chữa rắn cắn: Lấy thân rễ tươi
giã lấy nước uống, bã đắp.
Ở
Hawaii cây được dùng làm thuốc trị thối mũi.
Rễ
cây tán bột được dùng làm thuốc hạ nhiệt ở Ấn Độ.
Ở
Môluyc, người ta dùng làm thuốc súc miệng; cũng dùng làm thuốc
trị tê thấp ở Ấn Độ, tinh dầu cũng được sử dụng làm
thuốc trị giun.
Ở
Vân Nam (Trung Quốc), thân rễ trị đòn ngã tổn thương, phong
thấp gân cốt nhức mỏi, cảm mạo đau mình mẩy, bạch đới nóng
lạnh. Quả dùng trị dạ dày bụng đầy trướng, ăn uống không
tiêu.
|
|