Ngọc
lan hoa vàng Ngọc
lan hoa vàng, Hoàng lan, Sứ vàng - Michelia
champaca L., thuộc họ Ngọc lan - Magnoliaceae. Mô tả:
Cây nhỡ, cành non có lông mềm. Lá có nhiều lông ở mặt dưới.
Hoa màu vàng rất thơm. Bao hoa gồm nhiều bộ phận không phân hoá
thành đài và tràng, dài, hơi nhọn, xếp theo một đường xoắn
ốc. Nhị nhiều, có chỉ nhị ngắn và dẹp. Lá noãn nhiều, rời
nhau, xếp theo một đường xoắn ốc trên đế hoa lồi. Quả gồm
nhiều đại xếp sít nhau. Cây ra hoa tháng 7, có quả tháng 10.
Bộ phận dùng:
Rễ, quả, vỏ thân, tinh dầu hoa, lá – Radix,
Fructus, Cortex, Oleum et Folium Micheliae Champacae. Nơi sống và thu hái:
Loài phân bố từ Ấn Độ, Trung Quốc tới Malaixia. Ở nước ta, cây
mọc hoang và thường được trồng. Thu hái vỏ thân, rễ quanh năm,
rửa sạch thái nhỏ, phơi khô. Lá và hoa thường dùng tươi. Hoa có
thể cất tinh dầu. Quả thu hái vào mùa đông. Thành phần hoá học:
Hoa chứa tinh dầu, tới 0,11%. Tinh dầu này có giá trị ngang tinh
dầu hoa Hồng. Nó chứa iso-eugenol, metyl-eugenol; còn có các alcol
(alcol benzylic, linalol, geraniol), và nếu cất bằng hơi nước, còn
giữ được khá nhiều chất cineol. Lá cũng chứa tinh dầu. Vỏ
chứa một alcaloid ít độc. Tính vị, tác dụng:
Rễ, quả có vị đắng tính mát; có tác dụng khư phong thấp,
lợi hầu họng, kiện vị chỉ thống; rễ khô và vỏ rễ có tính
xổ và cũng có tác dụng điều kinh. Vỏ thân có tác dụng giải
nhiệt, hưng phấn, khư đàm, thu liễm. Hoa, quả có tác dụng làm
phấn chấn, trấn kinh, khư phong, kiên vị, lợi niệu. Lá có tác
dụng giải độc. Công dụng: -
Vỏ cây được dùng làm thuốc trị sốt, ho, còn dùng làm thuốc
điều kinh, có thể dùng làm thuốc trị sốt rét cách nhật. -
Rễ khô và vỏ rễ dùng tươi dạng thuốc hãm uống để điều
kinh và dùng sắc rồi thêm sữa đông đắp trị áp xe. -
Hoa và quả chữa đầy hơi, buồn nôn và sốt, dùng như thuốc
lợi tiểu trong chứng đau thận và trong bệnh lậu. Phối hợp
với dầu Vừng làm thuốc đắp ngoài trị chóng mặt. -
Hạt và quả dùng chữa nứt nẻ ở chân, hạt cũng dùng làm
thuốc trị giun. Ở Malaixia và Philippin, người ta dùng thịt quả
trộn với các loại thuốc khác trị bệnh phong thấp đau nhức.
Ở Vân Nam (Trung Quốc), rễ và quả được dùng trị hóc xương,
phong thấp, đau dạ dày. -
Lá dùng nấu nước súc miệng khi bị đau yết hầu. Ở Ấn Độ,
dịch lá lẫn mật ong dùng trị đau bụng. Ở Thái Lan lá dùng
trị rối loạn thần kinh. -
Tinh dầu được dùng làm hương liệu, làm thuốc đắp trị đau đầu,
viêm mắt và thống phong. Đơn thuốc:
Trị sốt rét cách nhật: Dùng 30g vỏ hãm trong 100g nước sôi,
hoặc dùng 30g vỏ cho vào 1,2 lít nước, sắc cạn còn 600ml, uống
mỗi lần một ly lớn, khoảng 1 giờ trước và 1 giờ sau khi làm
cữ. |
||