|
Nấm
sò
Nấm
sò, Nấm bào ngư, Nấm hương chân ngắn - Pleurotus
ostreatus (Jacq. ex Fr.) Quél., thuộc họ Nấm sò - Pleurotaceae.
Mô tả:
Mũ nấm lúc đầu lồi lên, khi già mõm nhiều hay ít; mặt mũ
nhẵn bóng, mép mũ cuộn vào trong, sau vươn lên. Mũ có màu xám - nâu
sẫm tới màu nhạt. Thịt nấm dày, màu trắng. Cuống nấm ngắn,
mọc từng cái một, có khi mọc sít nhau gần như chung một gốc;
cuống phủ lông mịn hoặc nhẵn, màu nhạt hơn mũ, đôi khi trắng
xám (như khía của vỏ sò).
Bộ phận dùng:
Thể quả - Pleurotus.
Nơi sống và thu hái:
Nấm mọc đơn độc hay dạng lợp ngói chồng lên nhau trên thân cây
gỗ. Thường gặp vào mùa xuân, hè, thu ở trong rừng hay ven rừng
của nước ta (Hà Nội, Hải Hưng, Thái Bình). Hiện nay được gây
trồng nhiều. Nấm sò cũng là loại nấm được gieo trồng nhiều
nhất trên khắp thế giới.
Thành phần hoá học:
Nấm tươi chứa 90,4% nước, 4% protid, 3,4% glucid, 3,3% vitamin PP, 4mg%
vitamin C.
Tính vị, tác dụng:
Vị ngọt, tính ấm; có tác dụng thư cân hoạt lạc, truy phong tán
hàn, hạ huyết áp, hạ cholesterol, trừ u bướu.
Công dụng:
Nấm có mùi thơm hạnh nhân, ăn ngon. Cũng được sử dụng tương
tự như Nấm rơm, tuy thịt có dai hơn. Có thể dùng chế biến các
món ăn như xào với lòng lợn, hầm với xương lợn. Nấm sò
thuộc loại nấm ăn quý được ưa chuộng.
Ở
Ấn Độ, người ta giã nấm thành dạng thuốc thêm nước đắp vào
lợi răng khi tiết nước bọt nhiều và viêm miệng; còn được dùng
làm thuốc uống trong trị lỵ và ỉa chảy, và cũng dùng ngừng
xuất huyết.
Ở
Trung Quốc, Nấm sò được dùng trị lưng đùi lạnh đau, tay chân
yếu mỏi.
Ghi chú:
Còn có một loài khác gọi là Nấm sò xám - Pleurotus
pulmonarius (Fr.) Quél., thường mọc trên thân cây Dừa, trên gỗ
mục, trên bông từ tháng 1-10 ở một số nơi vùng đồng bằng
Bắc bộ. Cũng dùng như Nấm sò tím.
|
|