|
Khoai
nưa
Khoai
nưa, Khoai ngái, Nưa trồng - Amorphophallus
konjac K. Koch (A. rivieri Dur),
thuộc họ Ráy - Araceae.
Mô tả:
Cây thảo có củ lớn hình cầu lõm, đường kính có thể tới
25cm; trước ra hoa, sau ra lá. Mỗi lá chia làm 3 nhánh, các nhánh
lại chia đốt, phiến lá xẻ thuỳ sâu hình lông chim, các thuỳ
cuối hình quả trám thuôn, nhọn đầu; cuống lá thon, dài 40-80cm,
nhẵn, màu lục nâu, có điểm các chấm trắng. Cụm hoa có mo
lớn, phần bao mo màu lục nhạt điểm các vết lục thẫm, ở phía
mép màu hung tím, mặt trong màu đỏ thẫm. Trục hoa dài gấp đôi
mo. Quả mọng.
Bộ phận dùng:
Củ - Rhizoma Amorphophalli
Nơi sống và thu hái:
Khoai nưa được trồng ở Nhật bản, Trung quốc, Việt Nam và
Philippin. Ở nước ta, các dân tộc ở một số vùng đồi núi
thuộc các tỉnh Quảng ninh, Lạng sơn, Hà bắc... đã có tập quán
trồng khoai này từ lâu đời. Nhiều vùng nông thôn cũng có trồng
để lấy củ ăn. Củ Khoai nưa có kích thước lớn, nếu thu
hoạch sớm khi chưa già thì bở mà ít ngứa, để quá vụ mới
bới thì sượng, không bở mà ngứa; để sang năm thì ngứa nhiều
không ăn được. Khoai nưa bới sớm thì chỉ gọt vỏ, ngâm nước
vo gạo độ nửa ngày, rồi nấu với một nhúm muối độ 1 giờ là
ăn được. Đối với củ già, củ to thì phải xử lý bằng cách
dùng vôi, tro để kiềm hoá. Ta thường dùng loại củ này bổ đôi
hay bổ tư thành miếng nhỏ, ngâm nước phèn một đêm, rồi nấu
với một cục vôi trong 1 giờ thì mới hết ngứa. Muốn dự trữ
để dùng dần thì cũng phải thái miếng ngâm nước phèn một đêm,
đem phơi, rồi ngâm với nước nóng hoà vôi trong 1/2 ngày đem phơi
khô. Củ dùng làm thuốc cũng phải chế biến, thái mỏng ngâm nước
vo gạo một đêm, sau ngâm nước phèn chua một đêm, phơi khô,
rồi nấu với Gừng (100g Gừng cho 1 kg củ) trong 3 giờ cho hết
ngứa.
Thành phần hoá học:
Người ta đã biết trong 100g củ khô có tinh bột 75,16g, protein
12,5g, lipid 0,98, dẫn xuất không protein 3,27, cellulose 3,67, tro 4,42.
Tỷ lệ tinh bột nhiều gấp đôi Khoai sọ.
Tính vị, tác dụng:
Vị cay ngứa, tính ấm, có độc, có tác dụng hoá đờm, táo
thấp, trừ phong co cứng, thông kinh lạc, khỏi đau nhức, ấm tỳ
vị, khỏi nôn mửa, tán hạch, tiêu sưng tấy.
Công dụng:
Thường trồng lấy bột làm lương thực, lấy toàn cây và cành lá
dùng nuôi lợn, lấy cuống lá (bèn) nưa dùng nấu canh dấm hoặc
muối dưa ăn. Củ được dùng làm thuốc chữa đờm tích trong
phổi sinh suyễn tức, trúng phong bất tỉnh, cấm khẩu, chứng đau
nhức, bụng đầy, ngực tức, ăn uống không tiêu. Còn dùng trị
sốt rét, trục thai chết. Liều dùng 4-12g. Dùng ngoài lấy củ tán
bột hoà với dấm đắp vào trị mụn nhọt sưng tấy.
Đơn thuốc:
-
Chữa sốt rét có báng, đờm trệ, ăn không tiêu, dày da bụng; dùng
củ nưa chế 12g, Trần bì, Bách bệnh, Nam mộc hương, Ý dĨ (sao),
Nga truật, Xạ can đều 10g, sắc uống. Có thể tán bột uống
mỗi ngày 24g.
|
|