|
Anh
đào
1.
Tên thường gọi: Anh
đào – Prunnus cerasoides D. Don, thuộc họ Hoa hồng – Rosaceae.
3. Mô tả:
Cây gỗ nhỏ cao 5-10m, có vỏ xám, lốm đốm các lỗ khí hay hình
trái xoan. Lá sớm rụng, mỏng, nhẵn, hình tái xoan hoặc thuôn-ngọn
giảo, tròn hoặc hơi thon hẹp lại ở gốc, có mũi nhọn sắc, mép
có răng cưa, với răng đơnhay kép, tận cùng là một tuyến nâu,
dải 5-12cm, rộng 2,5-5cm; cuống lá nhẵn, dài 8-15mm, có 2-4 tuyến
dạng đĩa ở chóp có cuống hay không. Hoa màu hồng, xuất hiện trước
khi có lá thành cụm hoa bên gần như dạng tán thường có 3 hoa.
Quả hạch hình cầu hay dạng trứng, rộng 10-12mm, màu đỏ, có
hạch cứng với vách dày.
Cây ra hoa tháng 12 – tháng 1 và có quả từ tháng 2 đến tháng
4-5.
Loài
của núi cao Hymalaya, Tây Tạng xuống đến nam Trung Quốc, Lào, Thái
Lan và Việt Nam. Cũng gặp ở miền Bắc Việt Nam trong những vùng
núi cao của Lai Châu, Lào Cai, Cao Bằng, tới Ninh Bình, rất thông
thường ở núi cao tỉnh Lào Cai. Cũng được trồng nhiều nhất là
ở Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.
Ghi
chú: ở Trung Quốc người ta gọi
loài này là Vân Nam âu lý được xem như gần với mận. Còn Anh đào
là Prunus pseadocerasus Lindl, có quả ăn được, nhân hạt được dùng
làm thuốc trị nóng sinh ngứa ngáy, vỏ thân dùng làm săn da và
trừ ho, rễ và lá sát trùng dùng trị vết rắn cắn.
Cây
Anh đào chính thức không có ở nước ta. Ta có nhập trồng một
số loài Anh đào của Nhật Bản cũng thuộc chi Prunus.
Hình.
Anh đào
4.
Bộ phận dùng:
Quả - Fructus Pruni.
5.
Thành phần hoá học: Nhân hạt
chứa amydalin, plunasetin (isoflavon), sakurametin, pudumetin (flavon). Vỏ cây
chức flavonon glucosid là sakuranin và chacol glucosid một neosakuranin.
6. Công
dụng: Quả có vỏ quả khá dày, thịt đỏ, mọng nước, mùi
dễ chịu, có thể ăn được và chế rượu uống, người ta đã
chế ra loại rượu Anh đào của Đà Lạt. ở ấn Độ các cành
nhỏ được dùng để thay thế acid hydrocyanic; nhân hạt dùng làm
thuốc trị sỏi và Sỏi thận.
|
|