|
Dầu
mè tía
Dầu
mè tía, Dầu lai vải - Jatropha
gossypiifolia L., thuộc họ Thầu dầu - Euphorbiaceae.
Mô tả:
Cây nhỡ cao 1-2m, có mủ trong. Lá hình tim dài ở gốc, dạng tròn,
đường kính 12-15cm, chia thuỳ ở nửa dưới với 5 thuỳ có mũi
nhọn ngắn, hơi có lông tuyến ở mép, cuống lá cũng dài bằng
phiến; cuống lá và gân lá màu đỏ. Hoa xếp thành chuỳ ở
ngọn. Hoa có 5 lá đài, 5 cành hoa màu đỏ cao cỡ 5mm, 3 vòi nhuỵ
có nuốm hình móng ngựa. Quả nang, dài 1-1,2cm, cụt hai đầu, có 3
rãnh, hầu như nhẵn. Hạt màu xám hung, viền đen, có mồng.
Bộ phận dùng:
Lá, hạt, vỏ - Folium, Semen et Cortex
Jatrophae Gossypiifoliae.
Nơi sống và thu hái:
Gốc ở Trung Mỹ (Braxin) được nhập trồng và cũng gặp ở
trạng thái hoang dại; thường thấy dọc đường đi. Có thể thu hái
lá và hạt quanh năm.
Thành phần hoá học:
Lá chứa một saponin, một chất nhựa và tanin. Nhựa mủ của thân
chứa một chất dầu bay hơi.
Tính vị, tác dụng:
Lá và hạt gây xổ. Nhựa mủ thân có tính chất làm phân huỷ.
Công dụng, chỉ định và phối
hợp: Hạt có dầu dùng xổ và
gây nôn như hạt Dầu mè; người lớn dùng mỗi lần 20 hạt đem
rang lên làm thuốc xổ. Dầu hạt cũng dùng để trị phong cùi và
cũng dùng để thắp sáng. Nhựa cây bôi chữa rắn cắn. Lá sắc
uống chữa ho khan, mỗi lần dùng 7-12 lá. Người ta còn dùng lá
Dầu mè tía, lá Vạn niên thanh và củ Ngô đồng nấu thành cao đặc
làm thuốc dán.
Ở
Ấn Độ, lá dùng đắp nhọt đầu đinh, mụn nhọt, eczema và ghẻ
ngứa. Nước sắc vỏ cây dùng điều kinh. Hạt gây điên dại và
cũng có tác dụng gây nôn.
|
|