|
Dâu
Dâu,
Dâu tằm - Morus alba L., thuộc
họ Dâu tằm - Moraceae.
Mô tả:
Cây gỗ lớn cao tới 15m, màu nâu hay vàng vàng. Lá mọc so le,
phiến xoan dài 5-10 (20)cm rộng 4-8cm, gốc hình tim hay gần như
cụt, chóp tù hay hơi nhọn, có thuỳ trên các nhánh tược còn non,
có răng, với răng hình tam giác, tù, khía rộng; gân gốc 3, các gân
bên đạt tới chiều dài của phiến. Hoa cùng gốc hay khác gốc, các
hoa cái thành bông đuôi sóc hơi dài hơn rộng, nhưng không quá 2cm.
Quả trắng hay hồng, thuộc dạng quả phức gồm nhiều quả bế
bao trong các lá đài đồng trưởng và trở thành mọng nước.
Mùa
hoa tháng 4-5, quả tháng 6-7.
Bộ phận dùng:
Lá dâu - Folium Mori, thường
gọi là Tang diệp. Vỏ dâu - Cortex
Mori, thường gọi là Tang bạch bì; Cành dâu - Ramulus Mori, hay Tang chi. Quả Dâu - Fructus Mori, hay Tang thầm; Tổ bọ ngựa cây Dâu - Ootheca
Mantidis, hay Tang phiêu tiêu, Tầm gửi cây Dâu - Ramulus
Loran thi, hay Tang ký sinh.
Nơi sống và thu hái:
Nguyên sản của Trung Quốc, được trồng rộng rãi ở các nước
châu Á. Đã được trồng ở nước ta từ lâu đời khi người ta
biết nuôi tằm. Nhiều bộ phận của cây Dâu được thu hái làm
thuốc. Có những bộ phận có thể thu hái quanh năm. Tầm gửi
chỉ gặp ở những cây gỗ lớn. Dùng tổ bọ ngựa chưa nở,
phải đồ chín rồi sấy khô.
Thành phần hoá học:
Lá Dâu chứa inokosteron, ecdysteron, morocetin, umbelliferon, scopoletin,
scopolin, a-,
b-
hexenal, trigonellin và nhiều acid amin. Còn có chất cao su, tanin,
caroten, vitamin C, pentozan, đường. Vỏ rễ Dâu chứa các acid hữu cơ,
tanin, pectin và những hợp chất flavonoid bao gồm morin, mulberrin,
mulberronchromen, cyclomulberrin, cyclomulberrochromen. Quả Dâu chứa đường
(glucose và fructose), acid malic và acid succinic, protein, tanin, vitamin C,
caroten, sắc tố màu đỏ anthocyanidin. Tổ bọ ngựa trên cây Dâu
chứa protid, chất béo, muối sắt, calcium.
Tính vị, tác dụng:
Lá Dâu (Tang diệp) có vị đắng, ngọt, tính bình có tác dụng tán
phong, thanh nhiệt, lương huyết, sáng mắt. Người ta nhận thấy lá
Dâu có tác dụng trị liệu đái đường lại ức chế trực
khuẩn thương hàn, tụ cầu khuẩn. Vỏ rễ Dâu (Tang bạch bì) đã
cạo sạch lớp vỏ ngoài, phơi hay sấy khô, có vị ngọt, hơi đắng,
tính mát, có tác dụng thanh phế nhiệt, lợi thuỷ, chỉ khái, hạ
suyễn, tiêu sưng. Cành Dâu non (Tang chi) đã phơi hay sấy khô có
vị đắng nhạt, tính bình, có tác dụng trừ phong, lợi các
khớp, thông kinh lạc, tiêu viêm, hạ nhiệt, giảm đau. Quả Dâu
(Tang thầm) có vị ngọt, chua, tính mát, có tác dụng dưỡng
huyết, bổ gan thận, trừ phong. Tầm gửi cây Dâu (Tang ký sinh) có
vị đắng, tính bình, có tác dụng mạnh gân cốt, lợi huyết
mạch, hạ hồng cầu, an thai, xuống sữa, lợi tiểu. Tổ bọ
ngựa cây Dâu (Tang phiêu tiêu) có vị ngọt mặn, tính bình, có tác
dụng ích thận, cố tinh, lợi tiểu.
Công dụng, chỉ định và phối
hợp:
1.
Lá Dâu non có thể vò ra thái nhỏ nấu canh lẫn với các loại rau
khác, có hương vị của rau Dền giúp ăn ngon, ngủ yên. Lá Dâu thường
được dùng chữa sốt, cảm mạo do phong nhiệt, ho, viêm họng, đau
răng, đau mắt đỏ, chảy nước mắt, đậu lào, phát ban, cao
huyết áp, làm cho sáng mắt. Ngày dùng 6-18g, dạng thuốc sắc.
2.
Vỏ rễ dùng trị phế nhiệt, hen suyễn, khái huyết, phù thũng,
dị ứng do ăn uống, bụng trướng to, tiểu tiện không thông. Ngày
dùng 6-12g, dạng thuốc sắc.
3.
Cành Dâu dùng trị phong tê thấp, đau thắt lưng, đau nhức các đầu
xương, cước khí, chân tay co quắp. Ngày dùng 6-12g hay hơn, dạng
thuốc sắc.
4.
Quả dùng trị viêm gan mạn tính, thiếu máu, suy nhược thần kinh.
Ngày dùng 10-15g.
5.
Tang ký sinh chữa đau lưng, đau mình, chân tay tê bại, động thai,
sau khi đẻ ít sữa. Ngày dùng 12-20g, dạng thuốc sắc.
6.
Tổ bọ ngựa dùng chữa đi đái nhiều lần, di tinh, liệt dương,
bạch đới, trẻ em đái dầm. Ngày dùng 6-12g.
Người
ta còn dùng nấm Dâu tức là mộc nhĩ mọc trên cây dâu và sâu dâu
làm thuốc.
Dược
điển Trung Quốc có ghi là lá Dâu, vỏ Dâu, cành Dâu, quả Dâu đều
có công năng thanh phế nhiệt, trừ phong thấp, bổ gan thận. Người
ta dùng vỏ trị phế nhiệt, thổ huyết, thủy thũng; cành trị
phong thấp, thấp khớp viêm, đau lưng gối; lá trị phong nhiệt
cảm mạo; vỏ rễ trị viêm gan mạn tính, thiếu máu, thần kinh
suy nhược và dị ứng.
Ở
Philippin, người ta dùng Dâu chữa rò, mụn mủ, bướu và bệnh ngoài
da, các vết cắn, vết thương và bệnh lậu.
Ở
Ấn Độ, người ta dùng quả làm thuốc mát trong cơn sốt và còn
dùng làm thuốc chữa viêm họng, khó tiêu và bệnh u sầu; vỏ được
dùng làm thuốc xổ và trị giun.
Đơn thuốc:
1.
Ra mồ hôi trộm ở trẻ em, ra mồ hôi ở bàn tay người lớn: Lá
Dâu non nấu canh với tôm, tép hoặc dùng lá dâu bánh tẻ 12g, Cúc
hoa, Liên kiều, Hạnh nhân đều 12g, Bạc hà, Cam thảo đều 4g, Cát
cánh 8g, Lô căn 20g, sắc uống.
2.
Dự phòng cảm cúm: Lá Dâu 12g, Cúc hoa 12g, Thảo quyết minh 8g sắc
uống.
3.
Mắt đau, viêm màng kết mạc cấp tính: Lá Dâu nấu nước xông vào
mắt; lá Dâu bánh tẻ, rửa sạch, giã nát đắp, có thể làm tan
huyết khi đau mắt đỏ sung huyết.
4.
Huyết áp cao: Lá Dâu và hạt Ích mẫu nấu nước ngâm chân buổi
tối 30-40 phút trước khi đi ngủ.
5.
Viêm khớp sưng phù, chân tay tê bại, cước khí, đầu ngón tay đau
nhức, ngứa đỏ về mùa đông đợt lạnh nhiều: Cành Dâu, Kê
huyết đằng, Uy linh tiên, mỗi vị 12g, sắc nước uống.
6.
Ho, hen suyễn: Vỏ rễ 20-40g sắc uống. Có thể thêm Địa cốt bì
và Cam thảo.
7.
Khó tiêu, chân tay phù nề: Vỏ rễ Dâu sắc uống hoặc phối hợp
với vỏ Gừng, vỏ Quít, vỏ quả Cam, Phục linh sắc uống.
8.
Chữa thiếu máu, da xanh người gầy khô héo, mất ngủ, đầu choáng,
chóng mặt; dùng quả Dâu chế xirô hay ngâm rượu hoặc dùng quả
Dâu thêm Câu Kỷ tử, Hà thủ ô đỏ, nhân hạt táo, mỗi vị 10g,
sắc uống.
9.
Trừ phong thấp, mạnh gân cốt, can thận yếu dẫn tới đau lưng
mỏi gối: Tầm gửi cây Dâu, phối hợp với Cẩu tích, Ngưu tất,
sắc nước uống.
10.
Bổ huyết, an thai khi bị động thai ra máu: Tầm gửi thêm rễ Gai,
Tục đoạn sắc nước uống.
11.
Di mộng tinh, hoạt tinh: 10 tổ Bọ ngựa sao cháy nghiền bột, thêm
đường, uống trước khi đi ngủ, uống 3 ngày. Có thể thêm Long
cốt, nghiền bột mịn, ngày 2 lần, trong 3 ngày.
12.
Đái dắt, đái nhạt: Tổ Bọ ngựa Dâu cùng với quả Kim anh, nướng
cháy, tán mịn, uống với rượu lúc đói.
13.
Thuốc bổ: Sâu Dâu thêm nước cơm hấp chín, ăn tất cả.
|
|