|
Cỏ
tóc tiên
Cỏ
tóc tiên, Thổ mạch môn - Liriope spicata (Thunb.) Lour., thuộc
họ Mạch môn - Convallariaceae.
Mô
tả: Cây thảo sống lâu năm có
thân rễ ngắn, dày, có rễ dạng sợi. Lá mọc từ gốc, nhiều,
cứng dài tới 30cm, rộng 4-7mm. Thân mang hoa đơn, cứng, thường
ngắn hơn lá; hoa màu hoa cà hay tim tím, xếp 3-5 cái thành xim nhỏ,
dài 2-5mm. Quả mọng ngắn, hình trứng dạng cầu, màu xanh lam, có
hạt không nhiều.
Hoa
tháng 5-7, quả tháng 8-10.
Bộ
phận dùng: Rễ củ - Radix Liriopis; thường gọi là Thổ mạch môn.
Nơi
sống và thu hái: Cây mọc
rộng rãi ở chỗ ẩm trong rừng nhiều nơi ở miền bắc Việt
Nam, nhất là trong các nương cà phê. Cũng được trồng ở miền
trung và cả ở Lào. Còn phân bố ở Nhật Bản, Trung Quốc. Người
ta cũng thường trồng và thu hái củ vào mùa hạ và mùa thu, rửa
sạch, loại bỏ các rễ con rồi phơi khô.
Thành
phần hoá học: Củ khô chứa
protid 1,59%, lipid 0,52%, nước 80,1%, tro 2,26%. Còn có chất nhầy.
Tính
vị, tác dụng: Vị ngọt và đắng, tính hơi lạnh, có tác dụng điều hòa
huyết, làm tăng sự tiết nước bọt và chống ho. Tác dụng của
nó cũng như Mạch môn nhưng hơi yếu hơn.
Công
dụng, chỉ định và phối hợp:
Thường dùng như Mạch môn để chữa: 1. Lao phổi, viêm phế quản
mạn tính, viêm hầu mạn tính, ho khan; 2. Sốt, đánh trống ngực,
môi khô, táo bón. Ngày dùng 6-15g dạng thuốc sắc.
Nói
chung, nó được sử dụng để bổ gan, lợi dạ dày, trừ đờm,
chống ho, tiêu nóng, giải khát, nhuận phế, phụ nữ thiếu sữa,
mặt bị phù.
Ðơn
thuốc: Chữa ho, viêm hầu,
khản tiếng, dùng Cỏ tóc tiên, Thiên môn đông mỗi vị 360g, mật
ong 180g, đun nóng để được một hỗn hợp sền sệt. Dùng 10-15g
mỗi lần, uống với nước nóng.
|
|