|
Dưa
núi
Dưa
núi hay Bát bát trâu - Trichosanthes
cucumerina L., thuộc họ Bầu bí - Cucurbitaceae.
Mô tả:
Dây leo có nhánh mịn, có ít lông hay không lông. Lá tròn hay hình
thận, lõm sâu hình tim ở gốc, có lông ở mặt trên, có lông
nhiều ở mặt dưới, dài 7-10cm, rộng 8-12cm, có 5 thuỳ nhọn hay
tròn, có răng lượn sóng, cuống dài 2-7cm, vòi chẻ 2-3 nhánh. Hoa màu
trắng cùng gốc; hoạ đực xếp 8-12 cái thành cụm hoa mảnh, dài
10-15, hoa cái đơn độc với cánh hoa có rìa, và bầu thuôn. Quả hình
trái xoan hay hình trứng, dài 5-6cm, màu xanh trắng có sọc xanh
sậm, thịt quả màu đỏ chứa 10-20 hạt.
Bộ phận dùng:
Toàn cây - Herba Trichosanthis
Cucumerinae.
Nơi sống và thu hái:
Cây của vùng Ấn Độ-Malaixia, thường gặp trên các đất hoang và
lùm bụi một số nơi ở miền Nam nước ta từ Đồng Nai tới An
Giang. Có thể thu hái dây lá quanh năm.
Thành phần hoá học:
Hạt chứa chất béo, trong đó có nhiều acid béo.
Tính vị, tác dụng:
Toàn cây có tác dụng bổ chung và trợ tim giải khát, giải
nhiệt, hạ sốt. Quả có vị rất đắng, tính mát, có tác dụng
nhuận tràng, lợi tiêu hoá. Hạt hạ sốt, trị giun. Dịch lá gây
nôn, dịch rễ gây xổ.
Công dụng, chỉ định và phối
hợp: Quả được dùng để ăn,
người ta thích ăn dù rằng rất đắng, nó là thuốc bổ đắng, dùng
ăn dễ tiêu hoá. Toàn cây được dùng trị nhọt và trị giun.
Ở
Ấn Độ, thân và lá thường được dùng sắc uống chữa rối
loạn mật, chữa bệnh ngoài da và cũng dùng điều kinh. Để trị
sốt rét người ta hãm cách đêm 10g dây với 10 g hạt mùi và sáng
hôm sau thêm mật ong - uống sáng một nửa, chiều một nửa. Hạt
được dùng trị rối loạn ở dạ dày.
Ở
Malaixia, người ta cũng dùng hạt trị rối loạn về tiêu hoá, hạ
nhiệt và trừ giun, lại dùng các chồi non và quả khô hãm uống
giúp khai vị, hoặc sắc uống với đường dùng kích thích tiêu hoá.
|
|