|
Ðậu
ván trắng
Ðậu ván
trắng, Bạch biển đậu - Lablab purpureus (L.) Sweet subsp,
purpureus (Dolichos purpureus L.D. lablab L.), thuộc họ Ðậu - Fabaceae.
Mô
tả:
Dây leo sống 1-3 năm, dài tới 5m. Thân có góc, hơi có rãnh, có lông
thưa. Lá kép mọc so le, có 3 lá chét hình trứng chỉ có ít lông
ở mặt dưới. Hoa trắng hay tím nhạt, mọc thành chùm ở ngọn cành
hay nách lá. Quả đậu màu lục nhạt, khi chín có màu vàng nhạt,
đầu quả có mỏ nhọn cong. Hạt hình trứng tròn, dẹt, dài
8-15mm, rộng 6-8 mm, dày 2-4mm. Vỏ màu trắng ngà,
có khi có
chấm đen, nhẵn, hơi bóng, ở mép có rốn lồi lên, màu trắng.
Ra hoa kết
quả chủ yếu vào mùa thu - đông.

Bộ
phận dùng:
Hạt - Semen Dolichoris Album, thường gọi là Bạch biển đậu.
Lá và rễ cũng được dùng.
Nơi
sống và thu hái: Loài cổ nhiệt đới, được trồng rải
rác khắp các tỉnh đồng bằng, trung du và miền núi thấp, có
nhiều ở Phú Yên, Bình Thuận. Do trồng trọt mà người ta tạo ra
nhiều giống trồng khác nhau; thường trồng là giống leo, cho leo
giàn hoặc trồng ven hàng rào quanh nhà hay trồng xen với ngô. Quả
và lá non dùng làm rau ăn, hạt già dùng làm thuốc. Khi trời khô ráo,
hái các quả đậu thật già có vỏ ngoài vàng khô, bóc vỏ lấy
hạt, phơi hay sấy khô, khi dùng sao vàng. Lá tươi thu hái quanh năm.
Thành
phần hoá học: Hạt chứa nước 82,4%; protid 4,5%; lipid
0,1%, glucid 10%, tro 1%, Ca 0,25%; P 0,06mg%; Fe 1,67mg%. Có các loại đường
saccharoze, glucose, stachyose, maltose và raffinose. Còn có vitamin A, B2, C
và nhiều B1. Các acid amin phổ biến là tryptophan, arginin, lysin và
tyrosin. Ngoài ra còn có acid L-pipecolic và phytoagglutinin.
Tính
vị, tác dụng: Ðậu ván trắng có vị ngọt, tính hơi
ấm; có tác dụng bổ tỳ vị, điều hoà các tạng, dịu phong,
giải cảm nắng, trừ thấp và giải độc.
Công
dụng, chỉ định và phối hợp: Nhân dân dùng quả non và
hạt non, hoa và lá còn non làm rau luộc hay xào ăn. Hạt khô luộc
bỏ vỏ dùng nấu chè, làm nhân bánh ăn ngon. Hạt đậu ván trắng
có thể làm tương như đậu nành, chế biến bột dinh dưỡng sau
khi rang vàng bỏ vỏ hay sấy ở nhiệt độ 100-103oC trong 3-5 giờ.
Ðậu ván trắng có giá trị dinh dưỡng cao thường được dùng làm
thuốc bổ dưỡng và tăng sức tiêu hoá. Lại còn dùng trị cảm
nắng, khát nước, bạch đới, tỳ vị hư yếu, ỉa chảy, kiết
lỵ, viêm dạ dày và ruột cấp tính, đau bụng, nôn oẹ, ngộ độc
rượu, nhân ngôn, ngộ độc cá nóc, ngộ độc thức ăn mà sinh nôn
mửa. Lá được dùng chữa hóc xương, yết hầu sưng đau, đái ra
máu và chữa rắn cắn. Rễ cũng dùng phối hợp với các vị
thuốc khác chữa bệnh đậu lào; còn dùng chữa điên, đau giật,
co quắp chân tay.
Cách dùng:
Hạt dùng dưới dạng thuốc sắc hay thuốc bôi, mỗi ngày 8-16g.
Rễ dùng sắc uống với liều cao hơn. Lá tươi nhai ngậm với
muối nuốt nước chữa yết hầu sưng đau. Lá giã nát, trộn với
nước vo gạo đặc, gạn uống, còn bã dùng đắp trị rắn cắn.
Ðơn
thuốc:
1. Chữa
bệnh mùa hè thổ tả đau bụng dữ dội, nôn mửa: Dùng Ðậu ván
trắng sao, tán bột, uống với giấm. Hoặc dùng lá Ðậu ván, lá
Hương nhu mỗi thứ 1 nắm, giã nhỏ, chế giấm vào vắt lấy nước
cốt uống hay sắc uống. Có thể dùng riêng lá Ðậu ván trắng cũng
được.
2. Chữa phụ
nữ kinh nguyệt không đều, kinh bế lâu ngày, kém ăn mỏi mệt: Dùng
Ðậu vắn trắng sao vàng tán nhỏ, uống 3 đồng cân với nước cơm;
ngày uống 3 lần.
3. Chữa ngộ
độc thịt chim: Dùng Ðậu ván nghiền hoà với nước cho uống.
Ở Trung
Quốc, người ta có các cách sử dụng Ðậu ván trắng (Biển đậu)
trong ăn uống để trị bệnh như sau:
1. Sau khi
trẻ em đi lỏng, đại tiện hoặc lỏng hoặc khô, không còn bình
thường; đem ngâm Biển đậu vào nước qua một đêm, bóc vỏ,
nấu thành cháo loãng cho ăn. Có thể làm cho dạ dày tăng cường
thu nạp, đại tiện bình thường.
2. Mùa hè nóng
bức, ăn uống vô vị, thân mình mệt mỏi, có thể dùng Biển đậu,
lá Sen non nấu chè uống, lợi thấp khai vị.
3. Người già
sức dạ dày yếu, thần kinh dạ dày lỏng lẻo, đại tiện ít nát;
nấu canh Bạch biển đậu với mì cán lát, hàng ngày ăn sáng trưa
rất có ích.
|
|