|
Chỉ
thiên giả
Chỉ thiên
giả, Nam tiền hồ - Clerodendrum
indicum (L.) O. Ktze, thuộc họ Cỏ roi ngựa - Verbenaceae.
Mô
tả:
Cây nhỏ, cao 1-3,5m, không chia nhánh. lá mọc chụm 3-5, hẹp, dài đến
20cm, không lông. Hoa ở ngọn, đơn độc ở nách lá, màu trắng; đài
cao cỡ 15mm, có tuyến ở trong; tràng dài đến 9cm, có 5 tai đều;
nhị có chỉ nhị đỏ, không lông. Quả hạch xanh đen nằm trong đài
tồn tại.
Ra hoa quanh năm.
Bộ
phận dùng:
Cành lá, rễ - Ramulus et Radix
Clerodendri Indici.
Nơi
sống và thu hái: Loài của Ấn Độ, Mianma, Trung Quốc, Lào,
Campuchia, Thái Lan, Malaixia và Việt Nam. Ở nước ta, cây mọc ven
đường, bãi đất hoang ở các tỉnh Nam Bộ. Cũng thường được
trồng làm cây cảnh, thuốc nam. Thu hái cành lá quanh năm; rễ
lấy về, rửa sạch, thái nhỏ, phơi khô.
Thành phần hoá
học:
Lá chứa alcaloid và một chất đắng. Vỏ chứa hexitol (D-mannitol)
78%, cùng với sorbitol.
Tính
vị, tác dụng: Cây có vị đắng, tính mát, có tác dụng
bổ đẳng, thông khí, hạ đờm, tiêu viêm, trừ giun.
Công
dụng, chỉ định và phối hợp: Thường dùng làm thuốc
chữa cảm gió, cam tẩu mã, hen suyễn. Lá dùng làm thuốc trị
giun; còn dùng phối hợp với Trang đỏ, tán bột cuốn như điếu
thuốc lá để hút trị mũi có mủ. Ở Ấn Độ, người ta dùng
rễ làm thuốc trị hen suyễn, ho và bệnh lao hạch. Nhựa cây dùng
trị đau thấp khớp do giang mai. Dịch lá trộn với sữa lỏng dùng
làm thuốc đắp trị phát ban do nấm và bệnh chốc lở (pemphigut).
Lá cũng được dùng làm thuốc trừ giun.
|
|