|
Mỏ
quạ
Mỏ
quạ, Vàng lồ, Hoàng lồ - Maclura
cochinchinensis (Lour.) Corner (Vanieria
cochinchinenssis Lour.), thuộc họ Dâu tằm - Moraceae.
Mô tả: Cây bụi, sống tựa, có cành dài mềm, thân
có nhựa mủ trắng như sữa. Vỏ thân màu xám có nhiều lỗ bì màu
trắng. Thân và cành có nhiều gai cong quặp xuống trông như mỏ
con quạ. Lá mọc so le, hình trứng thuôn, dài 3-8cm, rộng 2-3,5cm,
gốc nhọn, nhẵn bóng ở mặt trên; cuống lá mảnh, có lông. Cụm
hoa hình đầu, đơn tính, khác gốc, mọc ở nách lá, màu vàng
nhạt. Quả nạc hình cầu mềm hơi cụt ở đầu, khi chín màu vàng;
hạt nhỏ.
Ra
hoa tháng 4-5 có quả tháng 10-12.
Bộ phận dùng: Rễ và lá - Radix et Folium Maclurae Cochinchinensis.
Nơi sống và thu hái: Loài phân bố ở các
nước nhiệt đới Á châu, Ðông Phi châu, Úc châu. Ở nước ta, cây
mọc hoang ở đồi núi, ven đường và được trồng làm hàng rào
từ Lào Cai, Vĩnh Phú đến Quảng Trị, Lâm Ðồng và Ðồng Nai.
Thu hái quanh năm, rửa sạch thái phiến, phơi khô dùng dần. Lá thu
hái quanh năm, bỏ cuống, dùng tươi hoặc nấu cao.
Thành phần hóa học: Rễ và lá chứa
flavonoid, tanin pyrocatechic và acid hữu cơ.
Tính vị, tác dụng: Vị hơi đắng, tính hơi
mát, có tác dụng hoạt huyết khư phong, thư cân hoạt lạc.
Công dụng, chỉ định và phối hợp:
Quả dùng ăn được hoặc để nấu rượu. Rễ được dùng trị
đòn ngã, phong thấp đau nhức lưng gối, lao phổi, ho ra máu hoặc
khạc ra đờm lẫn máu, bế kinh, hoàng đản và ung sang thũng độc.
Liều dùng: 12-40g dạng thuốc sắc. Cũng thường phối hợp với các
vị thuốc khác. Lá có thể dùng cho tằm ăn và dùng chữa các
vết thương phần mềm.
Ở
Thái Lan, người ta còn dùng gỗ trị sốt mạn tính làm thuốc bổ
và trị ỉa chảy.
Đơn thuốc:
1.
Chữa lao phổi, ho ra máu hoặc khạc ra đờm lẫn máu: Mỏ quạ
40g, Dây Rung rúc 30g, Bách bộ và Hoàng liên ô rô, mỗi vị 20g
sắc uống.
2.
Chữa kinh giản, lên cơn hằng ngày hay 3-4 ngày phát một lần: Dùng
Mỏ quạ, hạt Cau, Thảo quả, mỗi vị 20g sắc uống (theo Hoạt nhân
toát yếu).
3.
Chữa vết thương phần mềm (theo kinh nghiệm của cụ lang Long ở
Hải Hưng): lá Mỏ quạ tươi, lấy về rửa sạch bỏ cuống, giã
nhỏ đắp vào vết thương. Mỗi ngày dùng lá Trầu không nấu nước,
pha thêm một cục phèn 8g hoà tan rửa vết thương, rồi đắp
thuốc mới, độ 3-5 ngày là khỏi. Nếu vết thương xuyên thủng
thì đắp hai bên dính lại ngày làm một lần. Nếu vết thương
thịt chậm đầy, lâu kéo miệng thì dùng lá Mỏ quạ tươi với lá
Bòng bong, hai vị bằng nhau giã đắp và thay thuốc sau khi rửa
vết thương mỗi ngày một lần như trên. Sau 3-4 ngày thì giã thêm
lá Hàn the, ba thứ bằng nhau giã đắp và thay thuốc 3 ngày một
lần để vết thương mau lên da non và gom miệng.
Sau
2-3 lần băng với ba vị thuốc trên, dùng thuốc bột chế với
phấn cây Cau (sao khô) 20g, phấn cây Chè (sao khô) 16g, Bồ hóng 8g,
Phèn phi 4g tán rắc vết thương rồi để yên cho đóng vẩy và róc
thì thôi.
|
|