Dương
cam cúc
Dương
cam cúc - Matricaria chamomilla L.,
thuộc họ Cúc - Asteraceae.
Mô tả:
Cây thảo hàng năm, cao tới 60cm. Thân mọc đứng và phân nhánh. Lá
kép lông chim 2 lần với các đoạn hình dải nhọn như gai. Lá nói
chung hoàn toàn nhẵn. Cụm hoa hình đầu nằm ở ngọn các cuống
mảnh, đường kính của đầu hoa là 1-1,5cm, với 1 vòng đơn các
hoa hình lưỡi trắng và ở giữa rất nhiều hoa hình ống màu vàng
xếp trên mặt đế hoa phồng lên thành dạng nón nhọn sau khi hoa
nở. Quả là những quả bế màu vàng trăng trắng dạng nón ngược,
nhẵn ở mặt ngoài, khía 5 cạnh ở mặt trong.
Ra
hoa tháng 5-9.
Bộ phận dùng:
Các đầu hoa, ít khi dùng toàn cây có hoa - Capitulum
et Herba Matricariae.
Nơi sống và thu hái:
Loài cây của Trung Âu được nhập vào trồng ở Đà Lạt. Gieo
trồng bằng hạt vào cuối mùa thu và đầu mùa xuân. Thu hái khi các
đầu hoa đã nở hết hoàn toàn. Phơi trong râm ở nhiệt độ 35oC.
Thành phần hoá học:
Hàm lượng tinh dầu thay đổi từ 0,2-1,8%. Màu lam sẫm của tinh
dầu vừa mới cắt xong do có hàm lượng cao của chamazulen (1-1,5%).
Chất carbur này được tạo thành trong quá trình chưng cất hơi nước
từ một guaianolid là matricin. Các thành phần khác của tinh dầu là
(-)a-bisabolol
(10-25%), các acid A và B của bisabolol (10-25%), một ether cyclic
poly-en, yne (1-10%) và nhiều carbur. Đầu hoa còn chứa nhiều
flavonoid; umbelliferon và herniarin (cumarin).
Tính vị, tác dụng:
Dương cam cúc có tác dụng tiêu viêm và khử trùng, nó cũng tác
dụng như chống co thắt trên nhiều cơ quan khác nhau và cũng làm
ra mồ hôi nhẹ.
Công dụng, chỉ định và phối
hợp: Thường được dùng
trong chữa các rối loạn của dạ dày, kèm theo đau, chữa trướng
bụng, khó tiêu hoá, trị ỉa chảy và buồn nôn. Dương cam cúc cũng
được dùng có kết quả chống các viêm nhiễm đường tiết
niệu và trị chứng thống kinh. Thường dùng dưới dạng thuốc hãm
(chỉ giữ được 10-15% tinh dầu hiệu hữu trong dầu hoa) hoặc
chế thành thuốc (cồn chiết, xirô) với liều 1 thìa xúp dược
liệu trong 1 lít nước. Dùng ngoài, hãm và rửa hoặc dùng bột để
trị các vết thương lâu lành, trị các bệnh về da như zona, đinh
nhọt, phát ban, trĩ, chống các viêm nhiễm ở miệng, họng và
mắt.
Người
Đức và các nước Trung Âu dùng nhiều trong điều trị đầy hơi,
đau bụng, khó tiêu hoá. Người ta dùng Dương cam cúc cùng với các
chiết xuất và tinh dầu của nó để chế các pomat và các thuốc
xúc rửa dùng tiêu viêm và làm lành sẹo.
Trong
mỹ phẩm, người ta dùng nó chế nước gội đầu, làm gel chống
nắng; tinh dầu được dùng trong hương liệu và chế xà phòng thơm.
Ở
Tuynidi, có nơi dùng hoa làm thuốc lọc máu sau khi sinh đẻ và làm
thuốc dịu đau trước khi sinh. Người ta còn dùng Dương cam cúc làm
thuốc trị cơn đau Sỏi thận.
|