|
Gừng
Gừng,
Khương - Zingiber officinale (Willd.) Roscoe, thuộc họ Gừng - Zingiberaceae.
Mô tả: Cây thảo cao
tới 1m. Thân rễ nạc và phân nhánh xoè ra như hình bàn tay gần như
trên cùng một mặt phẳng, màu vàng, có mùi thơm. Lá mọc so le, không
cuống hình mác, có gân giữa hơi trắng nhạt khi vò có mùi thơm.
Cán hoa dài cỡ 20cm, mang cụm hoa hình bông, gồm nhiều hoa mọc sít
nhau. Hoa có tràng hoa màu vàng xanh, có thuỳ gần bằng nhau nhọn. Cánh
môi ngắn hơn các thuỳ của tràng, màu tía với những chấm vàng.
Nhị hoa màu tím. Quả mọng.
Bộ phận dùng: Thân
rễ (thường gọi là củ )- Rhizoma Zingiberis, có tên là Can Khương.
Nơi
sống và thu hái: Loài của á châu và Phi châu nhiệt đới, được
trồng rộng rãi khắp nơi để lấy củ ăn làm gia vị và làm
chất kích thích thơm. Gừng tái sinh dễ dỔng b?ng những đoạn thân
rễ có nhú mầm; có thể trồng quanh năm nhưng tốt nhất là vào mùa
xuân; vào cuối đông thì cây khô lá. Khi dùng làm thuốc, người
ta đào thân rễ về, cắt bỏ thân lá và rễ tơ, rửa sạch đất,
phơi hay sấy khô.
Thành phần hoá học: Trong
củ Gừng có 1-3% tinh dầu mà thành phần chủ yếu là a-
camphen, b-phelandren
một carbur là zingiberen một alcol sesquiterpen, các phenol (cineol,
citral, borneol, geraniol, linalol, zingiberol. Ngoài ra còn có 3,7% lipid,
tinh bột và 5% nhựa dầu trong đó có các chất cay như zingeron,
zingerol, và shogaol.
Tính vị, tác dụng:
Gừng sống có vị cay, tính hơi ấm, có tác dụng chống lạnh, tiêu
đờm, chặn nôn giúp tiêu hoá. Gừng nướng có vị cay ấm, chữa
đau bụng lạnh dạ đi ngoài. Gừng khô có vị cay nóng, tính hàn.
Vỏ gừng tiêu phù thũng.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Gừng là vị thuốc quen thuộc trong nhân dân ta để giúp
cho sự tiêu hoá, dùng trong những trường hợp kém ăn, ăn uống không
tiêu, nôn mửa đi ỉa, cảm mạo phong hàn, làm thuốc ra mồ hôi,
chữa ho mất tiếng.
Cách dùng: Gừng
sống nhấm từng ít một dùng chữa nôn mửa. Có thể sắc Gừng tươi
để uống. Ngày dùng 4-8g. Có thể làm thuốc pha hoặc ngâm rượu
Gừng, mỗi ngày dùng 2-5ml để chữa ngoại cảm, bụng trướng đầy,
nôn mửa, ho. Dùng gừng phối hợp với Chanh quả, củ Sả, mỗi
thứ 10g, thái nhỏ ngâm với 5g muối và xirô đơn (vừa đủ 100ml)
trong 3 ngày rồi dùng vải vắt kiệt lấy nước, đựng trong lọ kín.
Dùng uống trị ho, ngày 2 lần, mỗi lần 1-2 thìa canh. Trẻ em dùng
1/2 liều của người lớn. Gừng khô sắc uống như Gừng tươi, dùng
khi bị lạnh mà đau bụng, đi ỉa lỏng, mệt lả, nôn mửa. Trong
Nam dược thần hiệu, Tuệ Tĩnh đã ghi bài thuốc chữa cảm hàn rét
run, hay đau bụng lạnh dạ, ỉa xối ra nước hoặc đau bụng thổ
tả dùng Can khương và củ Riềng ấm, mỗi vị 15-20g sắc uống.
Gừng sao thật vàng cũng dùng chữa đau bụng lạnh, tay chân lạnh,
nhức mỏi tê bại, tê thấp, đầy hơi. Gừng sao gần cháy cũng dùng
như Gừng sao và còn dùng trị băng huyết. Nhân dân ta còn chế
mứt Gừng và Gừng muối. Gừng muối dùng tránh ho và chống lạnh
trong mùa đông, nó lại có tác dụng tăng cường muối cho cơ thể
đỡ say nóng và đỡ khát nước trong mùa hè, mà còn chữa chứng
đầy bụng, làm thông đường tiêu hoá, sát trùng trong trường
hợp đau răng và sưng amygdal. Chúng ta có nhiều kinh nghiệm dân
gian trong việc sử dụng Gừng, từ những trường hợp đơn giản
như nhai gừng tươi nuốt nước chữa đau bụng, nôn mửa. oẹ...
đến những trường hợp phức tạp như chữa tỳ thấp thũng trướng,
tay chân phù, ăn uống không tiêu, sợ lạnh, sợ nước.
|
|