|
Rau
muối
Rau
muối - Chenopodium album L, Thuộc họ Rau muối - Chenopodiaceae.
Mô
tả:
Cây thảo cao 0,60-1m. Thân đứng, nhẵn, có khía phân nhánh nhiều.
Lá mọc so le, có cuống ngắn, thuôn, các lá phía dưới lớn hơn,
có hình thoi, có răng lượn sóng ở mép, các lá phía trên nhỏ hơn,
hầu như nguyên, tất cả đều có màu lục trăng trắng và có
phấn (do có lông mọng nước, làm cho mặt lá như rắc bột, rắc
muối) dài 3-6cm, rộng 2,5-5mm. Hoa tập hợp thành chùm xim co, bao hoa
trắng không cuống gồm 5 mảnh rời, nhị 5, không đều nhau; nhuỵ
có 2 đầu nhuỵ. Quả bế nằm trong bao hoa tồn tại; hạt óng ánh,
màu đen.
Ra
hoa vào mùa hạ (2-6) có quả vào mùa thu.
Bộ
phận dùng:
Toàn cây - Herba Chenopodii Albi.
Nơi
sống và thu hái:
Cây phổ biến ở các vùng nhiệt đới và á nhiệt đới. Ở nước
ta, rau muối mọc khắp nơi, thường gặp các ruộng bỏ hoang, các
nương rẫy cũ, các thung lũng đất trên các bãi ven sông, các bãi
đất mặn và ruộng muối.
Thành
phần hoá học:
Thân có lá chứa 87,7% nước, 5,3% protein, 1,2% glucid, 3,6% cellulose và
khoáng toàn phần 2,2%. Có các muối khoáng; calcium 32mg%, phosphor
2,8mg% và các vitamin; caroten 5,6mg%, vitamin C 108mg%.
Tính
vị, tác dụng:
Vị ngọt, tính bình, có ít độc, có tác dụng thanh nhiệt lợi
thấp, sát trùng, chỉ tả lỵ, chống ngứa; cũng có tác dụng
nhuận tràng và trừ giun.
Công
dụng, chỉ định và phối hợp:
Người ta thu hái các ngọn non và lá non của các cây hoang dại để
làm rau cho người, có thể luộc, xào hay nấu canh.
Ở
Mianma và Ấn Ðộ người ta trồng Rau muối để thu hoạch hạt
chế bột. Dùng rau muối làm rau ăn tiêu hoá tốt, lại còn dùng làm
thuốc trị di mộng tinh, trị lỵ, ỉa chảy, trị rắn cắn côn trùng
độc cắn, thấp sang dương chẩn. Thân và rễ dùng làm thuốc
trị bệnh lậu của phụ nữ.
|
|