Phật
thủ
Phật
thủ - Citrus medica L. var. sarcodactylis (Noot.) Swingle, thuộc họ
Cam - Rutaceae.
Mô
tả: Cây bụi hay cây
gỗ nhỏ, cao 3-4m, có gai. Lá hình trứng, chóp hơi tròn, có khi lõm,
gốc thuôn, cuống ngắn. Hoa trắng. Quả dài, vỏ màu vàng sẫm, có
nhiều múi chạy dài theo quả, phía ngọn tách ra trông như những
ngón tay chụm lại; cùi dày đặc, giòn và có mùi thơm phức.
Cây
ra hoa đầu mùa hạ, quả chín vào mùa đông.
Bộ
phận dùng: Quả - Fructus
Citri Sarcodactylis, thường là Phật thủ (Tay Phật). Hoa, lá và
rễ cũng được dùng.
Nơi
sống và thu hái: Là
cây trồng lấy quả dùng trang trí mâm quả ngày tết. Thu hái quả
vào mùa thu đông khi quả chuyển sang màu vàng. Thái dọc thành
từng miếng một rồi phơi hay sấy khô. Thu hái rễ vào mùa thu. Lá
thu hái quanh năm.
Thành
phần hoá học:
Trong Phật thủ có tinh dầu và một flavonoid, gọi là hesperidin.
Vỏ quả chứa tinh dầu. Vỏ quả trong chứa limettin, ngoài ra còn
diosmin và hesperidin.
Tính
vị, tác dụng:
Quả có vị cay, chua và đắng, tính ấm; có tác dụng hành khí
chỉ thống, kiện vị, hoá đàm.
Công
dụng, chỉ định và phối hợp:
Dùng trị: 1. Trướng đầy bụng, đau dạ dày. Chán ăn, nôn mửa;
3. Ho dai dẳng có nhiều đờm.
Cách
dùng: Cũng sử
dụng như Thanh yên.
Liều
dùng 3-10g cùi quả khô, dạng thuốc sắc hoặc dùng quả ngâm rượu
uống.
Đơn
thuốc:
1.
Viêm dạy dày mạn tính, đau dây thần kinh bụng: Dùng quả tươi
10-15g (hoặc 6g khô) ngâm trong nước sôi uống thay trà.
2.
Ho có đờm, viêm khí quản mạn tính: Nhai cùi cả vỏ với nước;
hoặc phối hợp với Bán hạ (đã xử lý với gừng), mỗi vị 6g,
sắc uống, pha thêm đường kính uống.
Cũng
như Thanh yên, ta có thể dùng hoa, lá và rễ thay thế khi không có
quả.
|