|
Khoai
nước
Khoai
nước, Môn nước - Colocasia
esculenta (L.) Schott, thuộc họ Ráy - Araceae.
Mô tả:
Cây thảo mọc hoang và được trồng, có củ ở gốc thân hình
khối tròn. Lá có cuống cao đến 0,8m; phiến dạng tim dài 75cm,
rộng 65cm, màu lục sẫm nhiều hay ít, tím hay nâu tuỳ giống
trồng, gân nổi rõ. Mo vàng có phần ống xanh, đầu nhọn. Trục bông
mo mang hoa đực và hoa cái, hoa cái có bầu nhiều noãn. Quả mọng
vàng khi chín to 3-4mm.
Bộ phận dùng:
Củ - Rhizoma Colocasiae Esculentae;
thường gọi là Vu.
Nơi sống và thu hái:
Loài được trồng nhiều ở nước ta và các xứ nhiệt đới để
lấy củ ăn. Người ta còn phân biệt loại Khoai nước mọc hoang,
mà người ta xếp vào một thứ của loài này - var.
antiquorum (Schott) Habb. et Rehd; ở Trung quốc, người ta gọi là Dã
vu. Có tác giả tách ra 2 loài riêng, nhưng cũng có người lại
nhập vào một loài. Cũng có người gọi Khoai nước là Colocasia
esacuenta Schott, còn Khoai sọ hay Khoai môn là Colocasia
antiquorum Schott. Hiện nay, do trồng trọt mà có nhiều thứ khác
nhau ở màu sắc của lá, màu sắc của củ. Ta thường nói đến
loại môn ngọt là loại Khoai môn có lá màu lục đậm với một
đốm đậm nơi gần của cuống. Khoai môn có khả năng thích nghi tương
đối rộng trên các loại đất: sét, thịt, cát, pha, cát thô với
độ pH cao. Khoai môn có 2 thời kỳ sinh trưởng, 6 tháng đầu phát
triển dọc và lá, từ tháng thứ 7 phát triển củ; khi củ già, lá
rụng dần.
Thành phần hoá học:
Lá và cuống là nguồn cung cấp provitamin A và vitamin C. Củ chứa
tới 30% một chất hột màu trắng, dính, không mùi vị với những
hạt bột rất nhỏ; Trong củ có ít nhiều loại hoạt chất chát
đắng làm kích thích các màng nhầy nhất là ở ống tiêu hoá, có
thể gây ngộ độc; mà có tác giả cho là sapotoxin. Nhưng hoạt
chất đó tan trong nước và bay hơi, do đó khi nấu hoặc khi rửa
kỹ đều làm mất hoạt chất trong củ. Trong củ còn có các tinh
thể oxalat calcium gây cảm giác ngứa, nên khi luộc cần phải thay
2 lần nước thì ăn mới hết ngứa. Dù có luộc chín vẫn giữ
lại 37-70% hàm lượng vitamin B1, còn riboflavin hay vitamin B2 và
vitamin PP vẫn được giữ lại với một tỷ lệ khá cao.
Công dụng:
Ta thường dùng củ nấu ăn với xôi hay nấu chè, làm bánh. Cuống
lá cũng thường dùng làm rau ăn nhưng phải xát hoặc ngâm với
muối để khỏi ngứa. Cũng dùng muối dưa ăn. Củ tươi giã nhỏ
dùng đắp trị mụn nhọt có mủ. Dùng ngoài giã nhỏ trộn với
dầu dừa xoa đắp diệt ký sinh trùng và trị ghẻ. Lá giã đắp
trị rắn cắn, ong đốt và mụn nhọt.
|
|