|
Bạc hà
Bạc hà hay Bạc hà nam -
Mentha arvensis L., thuộc họ Hoa môi - Lamiaceae.
Mô tả:
Cây thường tạo thành đám gồm
nhiều chồi ngắn hoặc dài mọc ngầm và khí sinh cùng với những thân vuông cao
0,30-0,70m, thường phân nhánh. Lá thuôn hoặc hình ngọn giáo, dài 4-6cm, rộng
1,5-2,5cm, màu lục tới lục hồng, mép có răng. Hoa nhỏ, màu trắng, hồng hoặc tím
hồng, tập hợp thành một loại bông dày đặc thường bị gián đoạn. Toàn thân có lông
và có mùi thơm.
Mùa hoa tháng 6-9.
Bộ phận dùng:
Lá - Folium Menthae, và
phần cây trên mặt đất - Herba Menthae Arvensis, thường gọi là Bạc hà.
Nơi sống và thu hái:
Cây của vùng Âu, á ôn
đới. Ở nước ta có những cây mọc hoang ở vùng núi cao và những chủng nhập trồng ở
nhiều nơi. Trồng bằng thân ngầm hoặc bằng thân cây trên mặt đất cắt đoạn dài
15-30cm. Cây ưa đất xốp, giàu mùn, ẩm ướt, thoát nước nhưng đủ độ ẩm. Có thể
trồng quanh năm. Thu hái khi cây bắt đầu phân nhánh hoặc ra hoa, đem sấy khô ở
nhiệt độ 30-400C cho đến khô, hoặc phơi trong râm. Khi đã cắt cây sát gốc, thì
bón phân để cây phát triển lại và sống lâu.
Thành phần hoá học:
Cây có chứa tinh dầu
0,5-1,5%, trong đó có L-menthol 65-85%, menthyl acetat, L-menthon, L-pinen, L-limonen
và flavonoid.
Tính vị, tác dụng:
Bạc hà có vị cay,
tính mát, thơm, có tác dụng hạ sốt, làm ra mồ hôi, làm dịu họng, lợi tiêu hoá
tiêu sưng, chống ngứa. Tinh dầu có tác dụng sát trùng, gây tê tại chỗ, có thể
gây ức chế làm ngừng thở và tim ngừng đập hoàn toàn. Nú kớch thích sự tiết dịch
tiêu hoá, đặc biệt là mật, chống sự co thắt của các cơ quan tiêu hoá và ngực.
Còn có tác dụng tiêu viêm.
Công dụng, chỉ định và phối hợp:
Thường dùng
trị: 1. Cảm cúm, nhức đầu, sổ mũi, sốt, đau họng, viêm hầu, ho; 2. Giai đoạn đầu
của bệnh sởi; 3. Chứng khó tiêu, đầy bụng, đau bụng; 4. Ngứa da. Mỗi lần dùng
2-6g phối hợp với các vị thuốc khác sắc uống.
Cũng thường dùng thuốc hãm để
kích thích tiêu hoá, chữa trướng bụng, đau bụng. Nước xông Bạc hà (có thể phối
hợp với các cây có tinh dầu khác) rất hiệu quả đối với cảm cúm, nhức đầu, sổ mũi,
đau họng. Cũng dùng làm thuốc sát trùng và xoa bóp nơi sưng đau. Nước cất Bạc hà
(sau khi gạn tinh dầu) đã bão hoà tinh dầu nên rất thơm (hoặc 1-2ml tinh dầu
trong 1 lít nước đã đun sôi để nguội) dùng để pha thuốc súc miệng, làm thuốc
đánh răng cho thơm và sát trùng răng miệng, họng. Có thể uống mỗi ngày 2-3 lần,
mỗi lần 2-3 thìa cà phê để giúp tiêu hoá. Ðau bụng, ỉa chảy, uống mỗi lần 4-6
thìa cà phê vào lúc đau. Còn dùng dưới dạng cồn Bạc hà (lá Bạc hà 50g, tinh dầu
Bạc hà 50g, rượu vừa đủ 1 lít) ngày dùng nhiều lần, mỗi lần 5-10 giọt cho vào
nước chín mà uống.
Ðơn thuốc:
1. Cảm cúm, đau đầu, sổ mũi,
dùng Bạc hà 5g, hạt Quan âm, Cúc hoa vàng mỗi vị đều 10g. Kinh giới 7g, Kim ngân
hoa 15g, sắc uống.
2. Ðau họng: Dùng Bạc hà 5g,
Ngưu bàng, Huyền sâm, Cát cánh, Cam thảo mỗi vị 10g sắc uống.
Ghi chú:
Phụ nữ cho con bú không nên
dùng nhiều, vì nó giảm sự tiết sữa. Húng cây - Mentha arvensis L.var, javanica (Blume)
Hook, là một thứ của Bạc hà thường trồng vì lá thơm, cũng dùng làm thuốc. Nó có
vị cay tính ấm, có tác dụng thông phế khí, giải ban, tán hàn, giải biểu, thông
thần kinh. |
|