Ấu Bộ phận dùng:
Quả – Fructus Trapae, thường có tên là Ô lăng. Có khi dùng cả
vỏ quả và toàn cây. Nơi sống và thu hái:
Cây của vùng cổ nhiệt đới mọc tự nhiên và cũng được
trồng nhiều trong các ao, hồ, đầm, sông cụt, mặt nước. Người ta phân biệt hai
giống trồng: ấu gai, quả có hai sừng nhọn như gai, năng suất
thấp; ấu trụi. quả có hai sừng tù, năng suất cao, thường được
trồng nhiều hơn. Người ta dựa vào hình dạng của quả để chia
ra: ấu nâng gương là ấu đã ra quả thành thục, chưa quá già, màu
nâu, lá không còn nằm ngang mặt nước mà đã lên chếch với
mặt nước. Lúc này thu hoạch dễ (vì quả chưa rụng xuống bùn)
và luộc ăn ngon; ấu sừng trâu, quả đã già màu đã chuyển từ
nâu sang đen sẫm, vỏ cúng như sừng, nhân có nhiều bột, cần thu
hoạch sớm. Người ta nhân giống ấu
bằng quả, từ quả sẽ sinh ra những dây ấu; dùng 4-5 dây này
nhổ sát gốc làm một tôm để đem cây nhân giống tiếp hoặc
trồng hẳn ở nơi có bùn để cho rễ bám nhanh và để lá nổi trên
mặt nước, tuy nhiên trong tự nhiên, quả rụng xuống nước và tái
sinh thành cây con dễ dàng lan toả trên diện tích rộng của mặt
nước. Để làm thuốc, ta thu quả tươi
hoặc quả già luộc, lấy nhân ra, bóc lấy vỏ để dành, hoặc dùng
cây tươi hay phơi hoặc sấy khô để dùng dần. Thành phần hoá học:
Trong nhân hạt có tới 49% tinh bột, và khoảng 10,3% protid. Tính vị tác dụng:
Củ ấu có vị ngọt, tính mát, có tác dụng bổ mát, giải nắng
nóng, giải độc; ăn thì bổ ngũ tạng. Vỏ quả có tính tăng
lực và hạ nhiệt. Công dụng:
Người ta trồng ấu để lấy quả làm thức ăn phụ hoặc để chăn
nuôi, còn lá dùng làm thức ăn xanh cho gia súc. Quả thường dùng
luộc chín hay rang ăn. Từ hạt có thể chế ra một loại bột,
nếu thêm đường hoặc mật làm bánh ăn ngon. Ở Trung Quốc cũng dùng
ăn hoặc nấu rượu. Quả cũng dùng làm thuốc giải nắng nóng,
giải độc, trừ rôm sảy. Người ta dùng quả sao lên để chữa
cảm sốt và đau đầu; còn dùng làm thuốc cường tráng. Ở
Campuchia, người ta chế ra một loại nước dễ uống có tác dụng
chống suy nhược do bị bệnh sốt rét và các loại sốt khác. Vỏ quả ấu còn dùng chữa
loét dạ dày và loét cổ tử cung, còn toàn cây dùng chữa sài đậu
trẻ em, giải độc rượu và làm cho sáng mắt. Liều dùng:
10-16g, dạng thuốc sắc. Dùng ngoài: giã cây tươi đắp không kể
liều lượng. Đơn thuốc: 1. Giải trúng nắng và giải
chất độc của thuốc, dùng củ ấu tươi giã nhỏ, chế thêm nước
nguội mà uống thật nhiều.
|
||